Player FM - Internet Radio Done Right
22,456 subscribers
Checked 4d ago
הוסף לפני nine שנים
תוכן מסופק על ידי France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. כל תוכן הפודקאסטים כולל פרקים, גרפיקה ותיאורי פודקאסטים מועלים ומסופקים ישירות על ידי France Médias Monde and RFI Tiếng Việt או שותף פלטפורמת הפודקאסט שלהם. אם אתה מאמין שמישהו משתמש ביצירה שלך המוגנת בזכויות יוצרים ללא רשותך, אתה יכול לעקוב אחר התהליך המתואר כאן https://he.player.fm/legal.
Player FM - אפליקציית פודקאסט
התחל במצב לא מקוון עם האפליקציה Player FM !
התחל במצב לא מקוון עם האפליקציה Player FM !
Tạp chí tiêu điểm
סמן הכל כלא נצפה...
Manage series 130288
תוכן מסופק על ידי France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. כל תוכן הפודקאסטים כולל פרקים, גרפיקה ותיאורי פודקאסטים מועלים ומסופקים ישירות על ידי France Médias Monde and RFI Tiếng Việt או שותף פלטפורמת הפודקאסט שלהם. אם אתה מאמין שמישהו משתמש ביצירה שלך המוגנת בזכויות יוצרים ללא רשותך, אתה יכול לעקוב אחר התהליך המתואר כאן https://he.player.fm/legal.
Thời sự quốc tế nổi bật qua lăng kính của RFI
69 פרקים
סמן הכל כלא נצפה...
Manage series 130288
תוכן מסופק על ידי France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. כל תוכן הפודקאסטים כולל פרקים, גרפיקה ותיאורי פודקאסטים מועלים ומסופקים ישירות על ידי France Médias Monde and RFI Tiếng Việt או שותף פלטפורמת הפודקאסט שלהם. אם אתה מאמין שמישהו משתמש ביצירה שלך המוגנת בזכויות יוצרים ללא רשותך, אתה יכול לעקוב אחר התהליך המתואר כאן https://he.player.fm/legal.
Thời sự quốc tế nổi bật qua lăng kính của RFI
69 פרקים
Semua episode
×Kể từ ngày trở lại Nhà Trắng, những tuyên bố và việc làm của tổng thống Mỹ Donald Trump khiến nhiều nước e ngại. Cuộc điện thoại nảy lửa giữa Trump và thủ tướng Đan Mạch Mette Frederiksen gây sốc đến nỗi bà đã nhanh chóng thực hiện chuyến công du châu Âu để củng cố sự ủng hộ từ Berlin, Bruxelles và Paris nhằm chống lại ý đồ muốn kiểm soát Groenland của Washington. Vậy liệu Tổng thống Donald Trump có thực sự lắng nghe không ? Hay có ai đó ở châu Âu làm cho ông lắng nghe ? Hay có ai đó có thể « diễn giải » nền chính trị của khối này cho tổng thống Hoa Kỳ ? Linh mục Phạm Hoàng Dũng, từ Liège, Bỉ, có bài nhận định. Meloni : Lãnh đạo EU duy nhất được mời dự lễ nhậm chức của D.Trump Theo trang Politico, một trong những ứng viên sáng giá nhất lúc này có lẽ là thủ tướng Ý Giorgia Meloni. Trước khi là nhà lãnh đạo thành viên Liên Hiệp Châu Âu (EU) duy nhất được mời tham dự lễ nhậm chức tổng thống Mỹ của Donald Trump vào ngày 20/01/2025, Giorgia Meloni đã được tỷ phú công nghệ Elon Musk tạo điều kiện gặp nhà lãnh đạo đảng Cộng Hòa trong một cuộc họp, bên lề lễ mở cửa trở lại Nhà thờ Đức Bà Paris vào tháng 12/2024. Tiếp đến, vào đầu tháng Giêng 2025, bà đã có một cuộc họp riêng tại dinh thự Mar-a-Lago của Trump ở Florida. Sau đó ông Trump gọi Meloni là « một người phụ nữ tuyệt vời » và mang lại cho bà một chiến thắng trong nước bằng cách giúp bà đàm phán việc thả con tin ở Iran. Việc Trump sẵn sàng gặp trực tiếp Meloni khiến bà trở thành một trong những nhà lãnh đạo châu Âu có quyền tiếp cận cao nhất so với các nhà lãnh đạo châu Âu khác như tổng thống Pháp Emmanuel Macron hay cựu thủ tướng Đức Olaf Scholz. Điều đáng chú ý khác là ngoại trưởng của thủ tướng Meloni là một trong bốn bộ trưởng EU duy nhất đã nói chuyện với tân ngoại trưởng Marco Rubio kể từ ngày 20/01/2025. Tuy nhiên, vẫn chưa biết mối quan hệ của Meloni sâu sắc đến mức nào. Vì bà cũng từng duy trì mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền tiền nhiệm Joe Biden trước khi Trump giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, một điểm mà chính phủ tổng thống Trump cũng có thể chống lại bà. Một điểm đen khác là chi tiêu quốc phòng của Ý, hiện đang dưới ngưỡng 2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và sẽ còn giảm trong năm 2025 này, và còn lâu mới đạt được mục tiêu mong muốn của Trump là 5% GDP đối với các nước châu Âu. Cuối cùng, sự thân thiết của Meloni với tỉ phú Musk có thể trở thành bất lợi nếu ông trùm công nghệ đột nhiên mất đi ảnh hưởng với Trump. Mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền Joe Biden Lên nắm quyền vào tháng 10/2022, vào thời điểm triển vọng quân sự của Ukraina đang tốt hơn, bà đã không chỉ tuyên bố và còn có hành động ủng hộ không ngừng đối với Kiev, nên bà giành được sự tin tưởng của Hoa Kỳ và tổng thống Joe Biden về điểm này. Bà Meloni cũng liên tục nhấn mạnh mối quan hệ tuyệt vời giữa bà và chủ tịch Ủy ban châu Âu, Ursula von der Leyen. Khi chăm lo cho mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương và trấn an Bruxelles, trong thuật ngữ chính trị của Ý, điều này có nghĩa là tôn trọng « mối ràng buộc bên ngoài ». Bà Meloni, người ca ngợi khả năng lãnh đạo của ông Trump, sau hai lần gặp gỡ trong thời gian từ lúc thắng cử cho đến lúc nhậm chức. Tổng thống Hoa Kỳ đã nhận diện rõ ràng hơn vai trò của bà. Hơn nữa, thủ tướng Ý còn đã thiết lập được mối quan hệ cá nhân và đặc quyền với nhà tài phiệt Elon Musk, người mà trong mắt bà là một « thiên tài quý giá ». Theo Allan Kaval, hai cuộc gặp, ở Washington và tại Mar-a-Lago, tư dinh của ông Trump ở Florida, như hai biểu tượng mà bà Giorgia Meloni tận dụng một mặt để bảo vệ lợi ích của châu Âu và đóng vai trò lãnh đạo lục địa trong khi Pháp và Đức suy yếu; mặt khác, vun đắp cho mối quan hệ song phương duy nhất giữa Roma và Washington và biến Ý thành đầu tàu ở Tây Âu nơi chủ nghĩa dân tộc đang lên và được « người bạn » Elon Musk ủng hộ từ Luân Đôn cho đến Berlin. Tình bạn với Elon Musk Trước khi lên nắm quyền, Giorgia Meloni vốn bị chính trường Ý đánh giá theo đường lối bảo thủ đi bên lề với khuynh hướng chính trị của nước Ý theo con đường châu Âu chống chủ nghĩa hiện đại. Nhưng vào năm 2023, bà đã chào đón một tỷ phú theo chủ nghĩa siêu nhân với các công ty tiên phong trong nhiều lĩnh vực mới, từ không gian đến cấy ghép thần kinh, bao gồm luôn cả xe ô tô điện. Hai con người có khuynh hướng đối lập, nhưng Giorgia Meloni và Elon Musk lại có nhiều điểm chung. Bà đã có mặt trong buổi phỏng vấn Elon Musk với phóng viên, Nicola Porro của nhật báo theo cánh hữu, Il Giornale . Và đã chứng kiến E. Musk lên án những nhà môi trường phải chịu trách nhiệm cho « sự mất hy vọng » trong tương lai, nạn nhập cư bất hợp pháp, sự chuyên chế của tính chính trị đúng đắn của một châu Âu quá quan liêu và chuẩn mực. Nỗi ám ảnh của Elon Musk về việc sinh sản cũng đã gặp được người chia sẻ khi thủ tướng Ý đang phải tìm kiếm giải pháp cho vấn đề suy giảm và dân số ngày càng già nua của nước Ý. Và trên hết, Meloni muốn qua cửa Elon Musk để đến với Donald Trump. Theo Allan Kaval, một trợ lý trẻ của Elon Musk tại Ý, Andrea Stroppa, 30 tuổi, một cựu tin tặc và chuyên gia an ninh kỹ thuật số tự nhận mình là bạn của tỷ phú và đã tham dự tất cả các cuộc họp với Giorgia Meloni, tóm tắt lại vào cuối tháng 9 trong một cuộc phỏng vấn với Nhật báo La Repubblica : « Elon ghi nhận khả năng lãnh đạo của Giorgia Meloni. Và ông nhìn thấy ở bà điều tương tự như ở Donald Trump, một người có thể bảo vệ các giá trị phương Tây đang bị đe dọa . » Cũng theo Stroppa, mối quan hệ giữa Meloni và Musk là « rất tốt ». Mối quan hệ giữa những người bảo thủ Ngày 23 tháng 9 năm 2024 tại New York bà Giorgia Meloni đã nhận Giải thưởng Công dân toàn cầu từ tay Elon Musk, giải thưởng được trao hàng năm bởi Hội đồng Đại Tây Dương – Atlantis Council, một trung tâm nghiên cứu lớn của Mỹ. Một số bức ảnh chụp vào buổi tối đó xuất hiện trên mạng xã hội X của chính E. Musk khiến người ta cho rằng ông có « mối quan hệ lãng mạn » với Giorgia Meloni, người mà ông còn cho là « xinh đẹp cả ở bên trong lẫn bên ngoài . » Tuy nhiên, nếu Giorgia Meloni dễ dàng giành được sự ủng hộ của chính quyền Joe Biden nhờ sự ủng hộ của bà dành cho Ukraine, thì thực ra bà lại thiên về thế giới của Trump hơn là EU. Là người nói tiếng Anh, bà đã cố gắng xây dựng mối quan hệ lâu dài với các nhóm bảo thủ ở Mỹ, mối quan hệ mà bà vẫn duy trì sau khi lên nắm quyền. Mối quan hệ của bà với Elon Musk cũng dựa trên logic này. Mối quan hệ dựa trên các lợi ích kinh tế Theo AFP, ngày 24 tháng giêng 2025, các phương tiện truyền thông của Ý đã đưa tin, anh trai của tỷ phú công nghệ Mỹ Elon Musk là Kimbal đã có cuộc gặp ngắn với thủ tướng Ý tại Roma. Trong cuộc gặp này còn có mặt của bộ trưởng văn hoá Alessandro Giuli. Chính phủ Ý hiện đang đàm phán với SpaceX để thiết lập mạng lưới truyền thông an toàn. Như vậy, bà Meloni đã gửi một tín hiệu khác khi thừa nhận rằng chính phủ Ý và công ty SpaceX của ông Musk đang đàm phán về việc sử dụng thiết bị Starlink để cung cấp thông tin liên lạc vệ tinh được mã hoá dành riêng cho quân đội Ý. Trong khi dự án vệ tinh IRIS của châu Âu vừa được triển khai, bà lại cho thấy rằng bà sẵn sàng phá vỡ mối quan hệ với Liên Hiệp Châu Âu trước lợi ích với Washington. Thoả thuận với SpaceX sẽ gây nguy hiểm cho giấc mơ tự chủ chiến lược của châu Âu. Mối tương đồng nguy hiểm Giorgia Meloni và Elon Musk là những người rất giỏi trong việc dùng các phương tiện truyền thông. Bà Meloni đang tiến hành một cuộc chiến văn hóa chống lại các phương tiện truyền thông, đặc biệt là các phương tiện truyền thông công cộng, được coi là cánh tả. Bà cũng đang xung đột với cơ quan tư pháp vì họ cản trở chính sách di dân của bà. Đây cũng là chủ đề mà sự can thiệp của Elon Musk vào đời sống chính trị của Ý, sau khi ông này viết trên mạng xã hội X của mình rằng các thẩm phán đã hủy bỏ lệnh giam giữ những người di cư tại các trung tâm giam giữ của Ý được thành lập tại Albania phải « ra đi ». Đối với các vấn đề chuyển đổi sinh thái, đây là phần « dễ dàng » trong chiến lược của Meloni. Một mặt, thủ tướng Ý sẽ rộng đường đi theo tổng thống mới của Hoa Kỳ trong các vấn đề chuyển đổi sinh thái, và mặt khác, củng cố yêu cầu Bruxelles chậm lại trong việc áp dụng các quy định mới cho ngành công nghiệp xe hơi và nhà ở. Qua Musk để đến với Trump Tuy nhiên, việc thích nghi lại với chủ nghĩa Trump sẽ phức tạp hơn khi xảy ra xung đột. Chắc chắn nhiệm kỳ tổng thống mới của Hoa Kỳ sẽ không còn liên tục với đường lối mà chính quyền Biden đã áp dụng. Và Roma, giống như tất cả các nguyên thủ và lãnh đạo khác châu Âu, sẽ gặp khó khăn. Đối với hậu quả kinh tế của một giai đoạn bảo hộ mậu dịch mới có thể xảy ra ở Hoa Kỳ, Meloni có kế hoạch bảo vệ chúng bằng lá bài mà bà đã vun đắp trong nhiều năm : Mối quan hệ trực tiếp và cá nhân với Elon Musk. Về quốc phòng, trí tuệ nhân tạo và thậm chí cả lĩnh vực xe hơi, thủ tướng Ý hy vọng sẽ gặt hái được nhiều lợi ích từ mối quan hệ hợp nhất này. Và ở Châu Âu vào lúc này, bà có thể sẽ hành động đáng tin cậy hơn thủ tướng Hungary Viktor Orban, người bạn thân lâu năm của Trump, với vai trò là cầu nối với Washington. Nhưng đây cũng là con dao hai lưỡi, một khi Elon Musk bị đương kim Tổng thống Mỹ cho ra rìa.…
T
Tạp chí tiêu điểm
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/512.jpg 512w)
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Donald Trump và giới tài phiệt công nghệ : Mối đe dọa cho nền dân chủ Mỹ ? 11:43
11:43
הפעל מאוחר יותר
הפעל מאוחר יותר
רשימות
לייק
אהבתי11:43![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Ngày 20/01/2025, hình ảnh những « ông trùm » – những tỷ phú Elon Musk, Mark Zuckerberg, Jeff Bezos cùng các đồng nghiệp – ngồi hàng ghế đầu tại lễ nhậm chức của tổng thống Mỹ Donald Trump đã gây ấn tượng mạnh. Sự kiện cho thấy quyền lực của những người cực kỳ giầu có ở Mỹ, đặc biệt là các nhà tài phiệt của Thung lũng Silicon. Vì sao Trump có được sự ủng hộ từ nhiều nhà tỷ phú công nghệ Mỹ? Liệu mối liên kết Trump và tổ hợp "công nghệ - công nghiệp" có thực sự đe dọa nền dân chủ Mỹ? Trước đó vài ngày, hôm 16/01/2025, tổng thống mãn nhiệm Joe Biden, trong bài phát biểu chia tay với toàn dân, đưa ra cảnh báo nghiêm trọng về sự hình thành một « chế độ tài phiệt » từ điều mà ông gọi là « một tổ hợp công nghệ – công nghiệp » , có thể gây ra « mối nguy hiểm thực sự cho đất nước ». Tuyên bố này của ông Biden gợi nhắc bài phát biểu chia tay của tổng thống Mỹ Eisenhower năm 1961, cũng cảnh báo người dân Mỹ trước mối nguy hiểm về một « tổ hợp công nghiệp – quân sự », mạnh đến mức có thể gây nguy hiểm cho những nền tảng của nền dân chủ Mỹ. Nhưng lịch sử Mỹ cũng từng chứng minh mối quan hệ giữa quyền lực và những người giầu có là một câu chuyện muôn thuở. Giới siêu giầu ở Mỹ luôn có tầm ảnh hưởng trên chính trường kể từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Nay chính trị Mỹ đang bước vào một kỷ nguyên mới với sự xuất hiện của một tầng lớp siêu giầu mới : Những nhà tài phiệt công nghệ của Thung lũng Silicon, giầu có hơn và nhiều quyền lực hơn bao giờ hết. Peter Thiel : « Nhà tiên tri » Tuy nhiên, Gilles Babinet, phó chủ tịch Hội đồng Kỹ thuật số, cố vấn Viện Montaigne về các vấn đề Kỹ thuật số, cho rằng điều đáng lo là, trong « tổ hợp công nghệ - công nghiệp » đó, có những người đã thay đổi lập trường chính trị ngay sau cuộc bầu cử muốn can dự nhiều hơn vào nền chính trị đất nước. Trên đài France Inter, Gilles Babinet phân tích : « Họ tin rằng về cơ bản, cấu trúc chính trị của họ, chủ yếu được quyết định bởi các lợi ích kinh tế là cực kỳ linh hoạt, và vài người trong số họ, với niềm tin sâu sắc, cho rằng một hình thức tinh hoa phải được tạo ra, phần lớn do những người hoạt động trong lĩnh vực công nghệ lãnh đạo và trong số này, Peter Thiel thực sự là một biểu tượng ». Theo quan điểm của nhà báo Thomas Snégaroff, có lẽ đây chính là nhà tài phiệt mà Joe Biden muốn nhắm đến,được mô tả như là một « nhà tiên tri », một nhà trí thức duy nhất, nguy hiểm nhất và có lẽ là quyền lực nhất. Thomas Snégaroff, cũng là nhà sử học, giải thích : « Năm 2009, trong một tập sách nói về giáo dục theo chủ nghĩa tự do cá nhân, ông ấy từng tuyên bố : Tôi không còn tin rằng tự do và dân chủ là tương thích ». Nếu như năm 2009, phát biểu này có vẻ bất thường, thì ngày nay, chúng có vẻ ngày càng đáng tin hơn, điều này nuôi dưỡng giả thuyết của Joe Biden, giả thuyết về ngày tận thế . » (France Inter ngày 30/01/2025) Mang tư tưởng chủ nghĩa tự do cá nhân (Libertarien), Peter Thiel được cho là « nhà tiên tri » bởi vì ông là người đầu tiên thấy Donald Trump là người vén lộ những gì là nước Mỹ thực sự. Tháng Giêng năm 2025, trên Financial Times, ông viết : « Năm 2016, tổng thống Barack Obama từng phát biểu vào thời điểm đó rằng thắng lợi của Donald Trump không hẳn là " ngày tận thế " . Tất nhiên là ông ấy đúng. Nhưng nếu chúng ta xem xét nghĩa gốc của từ " apokálypsis " trong tiếng Hy Lạp, - có nghĩa là " sự tiết lộ " – thì Obama có lẽ sẽ không thể đưa ra lời bảo đảm như thế vào năm 2025 ». Sinh ra tại Đức, nhưng giống như Elon Musk, Peter Thiel lớn lên tại Nam Phi trong suốt thời kỳ chủ nghĩa Apartheid. Ông là hiện thân cho một luồng di dân đánh dấu cho sự tìm kiếm tự do. Là một luật sư, nhưng Peter lại là một nhà đầu tư có ảnh hưởng. Ông là một trong số những người sáng lập Paypal, hệ thống chi trả qua mạng. Peter Thiel cũng là một trong số những người đầu tư vào Facebook, và đổ tiền vào SpaceX của Elon Musk, trở nên giầu có nhờ vào tài « đánh hơi » của mình. Và ông cũng là nhà tài phiệt công nghệ đầu tiên ủng hộ Donald Trump ngay từ năm 2016, theo như giải thích từ nhà báo Philippe Corbé, phóng viên thường trú của France Inter tại Mỹ : « Ông là người đầu tiên trong số những nhà tài phiệt, nhưng không phải là người giàu nhất. Ông ấy thực sự rất giàu, vẫn kém xa Musk, Bezos, Zuckerberg, nhưng ông ấy là người đầu tiên ủng hộ Trump. Và khi ông ấy nói về việc vén bức màn che lên, đó là vì ông ấy đã nói trong nhiều năm rằng những gì Trump đại diện trong xã hội Mỹ, trong chính trị, mà còn trong tinh thần của nước Mỹ ngày nay, đó không chỉ là một tai nạn bầu cử, không chỉ là một kẻ lắm mồm, mà là người có phương pháp khác biệt với những người khác. Về cơ bản, người vén bức màn ở đây theo nghĩa là người đã tiết lộ bản chất thực sự của nước Mỹ. Và nước Mỹ, theo quan điểm của Peter Thiel, không giống như giới tinh hoa mô tả về Thung lũng Silicon, nơi ông đã sống trong một thời gian dài, về Hollywood, nơi ông hiện đang sống, về Phố Wall hay về Washington. Đó có lẽ là một nước Mỹ còn tàn bạo hơn, dựa nhiều hơn vào sự cân bằng quyền lực, luật của kẻ mạnh hơn, và cũng là nước Mỹ ít đúng đắn hơn về chính trị ». Donald Trump : Người vén màn sự thật Tầm nhìn của Thiel là bảo vệ tự do cá nhân, kể cả về giới tính, ở đó, « tự do, tự do cực độ, vượt lên trên cả những cân nhắc về đạo đức hay thể chế ». Ông không ngần ngại công khai về xu hướng đồng tính của mình ngay tại kỳ đại hội đảng Cộng Hòa năm 2016. Cũng trong kỳ đại hội này, Peter Thiel từng bị xem là « điên rồ » khi là người đầu tiên công khai ủng hộ Donald Trump là ứng viên tranh cử tổng thống. Trên diễn đàn năm đó, Thiel giới thiệu Trump như là người tiết lộ « một phần bị che giấu của nước Mỹ » , lên án một « thế lực ngầm » tìm cách giấu giếm sự thật, khi lấy lại khẩu hiệu nổi tiếng : « Sự thật ở nơi khác » . Nghĩa là « có một sự thật mà người ta đang che giấu. Nhà nước Liên bang ở đó, các cơ quan của nhà nước như FBI, CIA hay nhiều cơ quan khác được giao trách nhiệm thao túng quý vị, để ngăn cản quý vị phát hiện ra sự thật. Điều đó cho thấy rõ những gì nằm sâu trong tâm trí người Mỹ, và trong sâu thẳm, đó là một dạng ngờ vực đối với nhà nước liên bang, vốn bị xem như là một quyền lực cản trở tự do cá nhân », theo như giải thích từ nhà báo Philippe Corbé. Cũng theo vị phóng viên thường trực của France Inter tại Mỹ, điều đáng chú ý là hiện có một luồng tư tưởng đang được phe chủ trương tự do cá nhân mà Thiel và Musk hiện thân, cho lan truyền trong cánh hữu Mỹ : Nước Mỹ có lẽ không nên là một nước dân chủ, rằng Mỹ nên là một nền Cộng hòa: « Theo những gì họ nói, nền dân chủ theo nghĩa cuộc chiến cho các giá trị dân chủ, cuộc chiến vì nhân quyền, cuộc chiến cho quyền các nhóm thiểu số, cuộc chiến cho nữ quyền, tất cả những cuộc chiến đó về cơ bản chỉ làm tổn hại đến những gì tạo ra tính hiệu quả, những gì mang lại sự vĩ đại, hay có thể mang đến sự vĩ đại cho nước Mỹ và sự tự do. Ý tưởng nêu ra là những giá trị dân chủ này giống như những hành lý nặng nề cản trở chúng ta chạy nhanh hơn. Họ không nói là muốn có một nền độc tài, họ cũng không nói là cần phải xét lại các giá trị dân chủ đó, nhưng họ bảo rằng " hãy cẩn thận chớ để sự tôn trọng hay bảo vệ các giá trị đó cản trở chúng tôi, không đè nặng chúng tôi đi đến mục tiêu tối cao, đó là có được sự thành công, trở nên quyền lực, và kiếm được nhiều tiền hơn . » Tự do « trá hình » ? Suy cho cùng, đối với nhà sử học và kinh tế gia Arnaud Orain, đó là một chủ nghĩa tự do trá hình. Musk và Thiel coi thường sự cạnh tranh và thị trường tự do. Thiel đã từng nói rằng « cạnh tranh là kẻ thù không đội trời chung của chủ nghĩa tư bản » . Đối với ông, việc tập trung quyền lực và thế độc quyền cho phép người ta có một nguồn tài chính vững chắc, tiến hành đổi mới mà không sợ mất tất cả nhờ những phương tiện không lồ. Trả lời báo Nouvel Obs, sử gia Orain nhận định : « Khi những gã khổng lồ công nghệ này có ý định bãi bỏ quy định, mục đích của họ là để chiếm lĩnh thị trường mới, áp đặt giá cả, củng cố thế độc quyền, chứ không phải để tạo ra đối thủ cạnh tranh. Musk và Thiel phụ thuộc chặt chẽ vào nhà nước và quân đội Mỹ. Nhìn chung, các công ty này đang có diện mạo như những quốc gia có chủ quyền mới. Đây chính là điều Mark Zuckerberg nhấn mạnh khi nói rằng “Facebook trông giống một chính phủ hơn là một công ty truyền thống”. Những gã khổng lồ này kiểm soát các động mạch và tĩnh mạch của thế giới, từ các tuyến cáp ngầm, vệ tinh, tên lửa, cho đến không gian chung cùng với mạng X. Chúng trông giống như các công ty Đông Ấn thế kỷ 17 và 18, tức các công ty vừa mang tính thương mại, vừa mang tính nhà nước . » Tệ hơn, nhà kinh tế học Josep Stiglitz, giải Nobel Kinh tế năm 2001, lên án Musk, Bezos, và Zuckerberg kiểm soát thông tin để phục vụ cho tham vọng độc quyền, một cách thức hoạt động mà ông đánh giá là « tồi tệ hơn » cả những nhà tài phiệt Mỹ đầu thế kỷ 20. Trên France Culture, ông cảnh báo : « Lý do để họ tồi tệ hơn là vì không chỉ liên quan đến vật chất, như xe hơi chẳng hạn, mà còn liên quan đến kiến thức, đến những gì chúng ta tin tưởng. Họ đang cố gắng kiểm soát truyền thông, hệ thống thông tin, cách chúng ta nhìn nhận câu chuyện của mình, xã hội của mình và họ đang tư nhân hóa quyền tuyên truyền chẳng hạn. Chúng ta không muốn tuyên truyền của nhà nước và bây giờ chúng ta đang có một nền tuyên truyền tư nhân hóa . » Tinh hoa chống tinh hoa Sự trỗi dậy của một giới tinh hoa mới ở Mỹ, giới « tinh hoa công nghệ » theo như cách gọi của Gilles Babinet, cũng cho thấy có một sự phân rẽ trong giới tài phiệt tại Thung lũng Silicon. Nhà trí thức Joel Kotkin, cựu thành viên đảng Dân chủ, và giờ là một nhà nghiên cứu độc lập, trả lời phỏng vấn báo Pháp Le Figaro, bác bỏ những nhận định « báo động » cho rằng sự liên kết giữa Donald Trump và tài phiệt công nghệ Mỹ có thể gây nguy hiểm cho nền dân chủ của đất nước. Một mặt, theo ông, thắng lợi bầu cử của Donald Trump là một sự chối bỏ ồ ạt của người dân Mỹ đối với phương thức điều hành của chính quyền Biden, cũng như là cách thức phe cực tả áp đặt thế thống trị của họ đối với các chính sách của Mỹ trong nhiều hồ sơ, từ di dân, giới tính cho đến môi trường. Mặt khác, việc chỉ trích mối liên kết giữa Trump và các nhà tỷ phú công nghệ, đối với ông Joel Kotkin, là một sự giả dối, và không quên nhắc lại tầm ảnh hưởng của Google đối với chính quyền Obama và Biden lớn như thế nào trong thời gian tranh cử, cũng như là sau khi đã lên cầm quyền. Các hãng công nghệ lớn cũng đã từng ủng hộ đảng Dân Chủ trong nhiều năm. Giờ đây, trong bối cảnh cạnh tranh với Trung Quốc, họ chợt nhận ra rằng sẽ khó thể trụ được nếu chính quyền Biden vẫn tồn tại. Sự chia rẽ này có nghĩa là các nhà tài phiệt ở cả hai bên sẽ phải xây dựng liên minh với các nhóm khác ngoài họ. Và đây sẽ là cuộc « đọ sức » giữa hai phe tài phiệt. Ở cánh hữu, phe dân túy, mà đại diện là phó tổng thống JD Vance, sẽ đối đầu với những ông trùm công nghệ như Musk. Theo ông Joel Kotkin, đây sẽ là một tin tốt lành, khi kể từ giờ có hai phe tài phiệt, mỗi phe ủng hộ một đảng, tranh giành lẫn nhau và do vậy sẽ mang lợi cho tầng lớp trung lưu.…
T
Tạp chí tiêu điểm
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/512.jpg 512w)
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Chính sách đối ngoại Trump 2.0: Từ « America First » đến « Hòa bình thông qua sức mạnh » 12:33
12:33
הפעל מאוחר יותר
הפעל מאוחר יותר
רשימות
לייק
אהבתי12:33![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Trong suốt chiến dịch vận động tranh cử và ngay cả sau khi đắc cử, Donald Trump đã cam kết trở lại với chính sách « hòa bình thông qua sức mạnh ». Tuy nhiên, đối diện với những giới hạn thực sự cho quyền lực toàn cầu của Washington, cánh hữu Hoa Kỳ đang phát triển những ý tưởng mới để phục hồi chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Nhiệm kỳ hai của Donald Trump sẽ thử thách chính sách đối ngoại này trong bối cảnh địa chính trị đầy biến động. Trong suốt chiến dịch vận động tranh cử, nhà tỷ phú Mỹ Donald Trump đã chỉ trích gay gắt chính sách đối ngoại của chính quyền đảng Dân Chủ, đả kích tổng thống Joe Biden là « bất tài » và các cố vấn của ông là « những thằng hề » không được bất kỳ ai tôn trọng. Donald Trump cáo buộc rằng chính sự yếu kém của họ đã lôi kéo nước Mỹ vào một cuộc chiến thế giới thứ ba. Ba xu hướng an ninh quốc gia Thay cho khẩu hiệu của Joe Biden là « Nước Mỹ đã trở lại », Donald Trump chọn « Hòa bình thông qua sức mạnh ». Một khẩu hiệu được lấy cảm hứng từ trong lịch sử quân sự thời La Mã Cổ Đại thế kỷ IV với câu châm ngôn nổi tiếng : « Si vis pacem, parabellum », nghĩa là « Nếu muốn có hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh ». Theo đó, nhà tỷ phú Mỹ cam kết « một quân đội hùng mạnh » cho nước Mỹ và chấm dứt các cuộc chiến. Nếu như giới quan sát tại Pháp cũng như ở châu Âu dự báo sự trở lại của chủ nghĩa biệt lập Mỹ cùng với những tuyên bố ầm ĩ gây bất ngờ của tân chủ nhân Nhà Trắng, hay nguy cơ Mỹ bỏ rơi các đồng minh, thì theo một nghiên cứu của Hội đồng Đối ngoại châu Âu, chính sách đối ngoại của tổng thống Trump phức tạp hơn nhiều, chứ không đơn thuần mang tính chủ nghĩa biệt lập « Nước Mỹ trên hết ». Cụ thể, trong nội bộ đảng Cộng Hòa có ba nhóm an ninh quốc gia đang cạnh tranh với nhau : « Những người kiềm chế - Restrainers » - phần lớn đặt Nước Mỹ trên hết ; « nhóm chủ trương ưu tiên - Prioritisers » muốn tập trung đối phó với Trung Quốc, và cuối cùng, những người theo « chủ nghĩa bảo thủ - Primacists », vốn dĩ theo trường phái cũ, muốn thể hiện sức mạnh của Mỹ ra toàn thế giới . Nhóm này chiếm một vị trí đáng kể tại Thượng Viện. Hai nhóm đầu tiên có cùng quan điểm là muốn giao phó toàn bộ vấn đề Ukraina cho châu Âu. Điều này giải thích vì sao về nhân sự được Trump bổ nhiệm, có sự không nhất quán trong nhóm cố vấn an ninh quốc gia, theo như ghi nhận từ NPR, đài phát thanh công của Mỹ. Người ta có thể thấy bà Tulsi Gabbard, ứng viên cho chức giám đốc Cơ quan Tình báo Mỹ, chỉ trích mạnh mẽ các hành động quân sự của Mỹ ở bên ngoài lãnh thổ quốc gia, và có thái độ thông cảm với các đối thủ của Hoa Kỳ, bao gồm cả nguyên thủ Nga Vladimir Putin. Nhưng mặt khác, chính quyền Trump II có một tân ngoại trưởng Marco Rubio, cực kỳ diều hâu, chống Nga, Trung Quốc và nhiều nước khác. Trong bối cảnh này, tân tổng thống Mỹ là hiện thân cho một nỗ lực hợp nhất các trào lưu khác nhau trong đảng Cộng Hòa. Trong giới hạn về thời gian, RFI Tiếng Việt xin giới thiệu vào hai xu hướng đầu : « Những người kiềm chế » và « N hóm chủ trương ưu tiên » để giải thích rõ hơn về chính sách đối ngoại « Hòa bình thông qua sức mạnh » của tổng thống Mỹ Donald Trump trong nhiệm kỳ hai. Sức mạnh quân sự Vào năm 2016, khi ra tranh cử tổng thống, Donald Trump nhận thấy có một sự phản đối ngày càng lớn đối với những cuộc chiến không hồi kết trong tầng lớp công nhân Mỹ, cũng như là tình trạng « quá tải » của chính quyền Mỹ do vô số cam kết với quốc tế. Và do vậy, trong suốt nhiệm kỳ đầu tiên, với lời hứa « Make America Great Again », viết tắt là MAGA, Trump đã thực hiện một chiến dịch bảo hộ mậu dịch, đoạn tuyệt với chính sách đối ngoại đặt cuộc chiến cho « nền dân chủ » làm trọng tâm trong nhiều thập niên, vốn dĩ đã cho phép định hình một trật tự thế giới tư bản đằng sau Hoa Kỳ. Donald Trump lần lượt rút Hoa Kỳ ra khỏi các thỏa thuận quốc tế, các định chế quan trọng của Liên Hiệp Quốc và thậm chí dọa rút khỏi NATO, đồng thời phát động một cuộc chiến thương mại để đối phó với các đối thủ lớn như Trung Quốc. Nay lại trở thành tổng thống thứ 47 của Mỹ, đề nghị rút khỏi cuộc chiến ở Ukraina cho đến tiếp tục cạnh tranh với Trung Quốc, về cơ bản vẫn là điều tương tự. Tuy nhiên, theo các nhà quan sát, trong nhiệm kỳ I, Donald Trump đã không thể giải quyết tất cả các hạn chế của Mỹ. Trước viễn cảnh quyền lực Mỹ bị các siêu cường hay đối thủ khu vực thách thức nghiêm trọng, Trump tiến hành một cuộc chiến kinh tế và có thể sẽ là quân sự. Thực thi áp lực và cưỡng ép đối với các đồng minh cũng như với kẻ thù của Mỹ tiếp tục là nét đặc trưng cho chính sách đối ngoại của chính quyền Trump 2.0. Chiến lược này đã được ông Robert C. O’Brien, cựu cố vấn an ninh quốc gia của Trump, nhiệm kỳ I, vạch rõ trong một bài viết đăng trên tạp chí Mỹ nổi tiếng Foreign Affairs năm 2024, trước khi diễn ra bầu cử. Ông viết : « "Nước Mỹ trên hết không có nghĩa là nước Mỹ đơn độc" là câu thần chú thường được giới chức chính quyền Trump nhắc lại và vì một lý do chính đáng : Trump thừa nhận một chính sách đối ngoại thành công đòi hỏi phải hợp tác với các chính phủ và người dân thân thiện ở những nơi khác. Do vậy, việc ông xem xét lại các quốc gia và nhóm nào thích đáng nhất sẽ không khiến ông trở thành người chỉ biết giao dịch hoặc là người theo chủ nghĩa biệt lập thù địch với các liên minh như những người chỉ trích ông tuyên bố. NATO và hợp tác quân sự của Mỹ với các nước Nhật Bản, Israel, cùng các quốc gia Ả Rập vùng Vịnh đã được tăng cường trong nhiệm kỳ đầu của Donald Trump. Chính sách đối ngoại và chính sách thương mại của Trump có thể được hiểu một cách chính xác như sự phản ứng trước những thiếu sót của chủ nghĩa quốc tế tân tự do, hay chủ nghĩa toàn cầu được tiến hành từ đầu những năm 1990 đến tận năm 2017. Cũng giống như nhiều cử tri Mỹ, ông Trump đã hiểu rằng "tự do thương mại" trên thực tế không phải như thế và trong nhiều trường hợp, nhiều chính phủ nước ngoài đã can dự vào khi sử dụng thuế quan cao, rào cản thương mại và đánh cắp sở hữu trí tuệ gây tổn hại cho lợi ích kinh tế và an ninh của nước Mỹ ». Phá bỏ quy định tăng cường sức mạnh kinh tế Trong bài viết dài này, ông Robert O’Brien còn đi xa hơn khi đưa ra một loạt đề xuất cụ thể để tái tổ chức các nguồn lực của Mỹ, cũng như đảm bảo rằng các đồng minh và đối thủ phải tuân thủ theo các kỳ vọng của Mỹ. Đáng chú ý nhất là đề nghị phân bổ lại các nguồn lực quân sự của Mỹ để tập trung nhiều hơn vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương, nhằm đối phó với các đối thủ bao gồm Trung Quốc và Iran, đồng thời đe dọa rút hỗ trợ quân sự cho các đồng mình như Đài Loan hay các nước thành viên NATO, trừ phi những nước này đầu tư nhiều hơn cho quân đội. Ngoài ra, để củng cố năng lực quân sự, O’Brien đề xuất một chương trình tái bổ sung kho dự trữ vũ khí của Mỹ, bao gồm tầu sân bay, tầu ngầm, oanh tạc cơ và tên lửa, vốn dĩ đòi hỏi nhiều khoản đầu tư ồ ạt trong các ngành công nghệ chủ chốt, cũng như phải thay đổi toàn bộ quy trình mua sắm trang thiết bị quân đội. Không chỉ có trong quân sự mà Hoa Kỳ phải khôi phục « sức mạnh » kinh tế. Nếu như thuế quan là công cụ để Mỹ gây áp lực với các đối tác và đối phương để có được những nhượng bộ trong trao đổi mậu dịch, thì theo ông O’Brien, những gì Mỹ có thể thực hiện ở bên ngoài còn phụ thuộc vào việc tái thiết năng lực sản xuất quốc gia. Trên Foreign Affairs, ông viết như sau : « Để duy trì lợi thế cạnh tranh trước cuộc tấn công gay gắt này, Hoa Kỳ phải tiếp tục là nơi tốt nhất trên thế giới để đầu tư, đổi mới và kinh doanh. Nhưng thẩm quyền quản lý của nhà nước Mỹ ngày càng tăng, bao gồm cả việc thực thi luật chống độc quyền quá mức, đe dọa phá hủy hệ thống doanh nghiệp tự do của Mỹ. Ngay cả khi các công ty Trung Quốc nhận được sự hỗ trợ không công bằng từ Bắc Kinh nhằm nhấn chìm các công ty Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu lại gây khó khăn khiến những công ty này khó cạnh tranh hơn. Đây là một công thức cho sự suy thoái quốc gia, các chính phủ phương Tây nên bãi bỏ những quy định không cần thiết ». Nói một cách khác, đây là một chính sách tái công nghiệp hóa cho Mỹ bằng cách phá bỏ các quy định bảo vệ người lao động, khi tiến hành cuộc chiến về lương chống lại các nghiệp đoàn và cho phép các doanh nghiệp khai thác tối đa người lao động Mỹ, cũng giống như cách mà những doanh nghiệp này đã trục được lợi qua việc bóc lột lao động Trung Quốc, theo như chỉ trích từ trang Revolution Permanente của Pháp, vốn ủng hộ chủ nghĩa cực tả Trotsky. « Mỹ không thể gánh hết mọi việc » Nếu như học thuyết « hòa bình thông qua sức mạnh » cho rằng những khó khăn chính cản trở Hoa Kỳ tái khẳng định vị thế là do thiếu ý chí thực hiện các hành động đơn phương và đầy rủi ro, những người chủ trương « kềm chế » trong phong trào MAGA lại cho rằng sự can thiệp quân sự tốn kém quá mức của Mỹ trên toàn cầu, chính sách phi công nghiệp hóa, thiếu sự quan tâm đến đầu tư giáo dục hay đến việc làm cho giới công nhân lại là những rào cản lớn nhất cho việc tái thiết uy lực của Mỹ. Phó tổng thống Mỹ J.D Vance là hiện thân cho trào lưu này, chiếm thiểu số tại Mỹ. Ông được xem như là một nhà trí thức hàng đầu trong Tân cánh hữu Mỹ, từng có tuyên bố thẳng thắn : « Hoa Kỳ không thể gánh hết mọi việc ». Theo tầm nhìn của ông, Mỹ nên phối hợp với các đồng minh, nhất là trong hồ sơ Ukraina và Trung Đông, nhưng không quên nhấn mạnh rằng đối thủ quan trọng nhất mà Mỹ phải đối phó là Trung Quốc. Và do vậy, phần quan trọng nhất của chính sách đối ngoại Mỹ là « sức mạnh kinh tế đất nước và sức mạnh người dân trong nước . » Cũng theo J.D. Vance, Trung Quốc giờ đã là một siêu cường kinh tế công nghiệp hùng mạnh nhất thế giới và Mỹ đã sai lầm để cho đối phương lớn nhất « trở thành đối thủ cạnh tranh công nghiệp mạnh nhất ». Phó tổng thống Mỹ J.D. Vance cùng những người ủng hộ sự hạn chế tin rằng nhiệm vụ đầu tiên trong chiến lược khôi phục sức mạnh nước Mỹ là tập trung phát triển năng lực sản xuất công nghiệp và tránh mọi hành động can thiệp ở bên ngoài có thể làm sao lãng đầu tư nhu cầu trong nước. Sự suy thoái của ngành công nghiệp Mỹ thúc đẩy phong trào MAGA, phản đối mạnh mẽ tiếp tục cuộc chiến ở Ukraina. Điều này đã được ông J.D Vance từng trình bày trong Hội nghị An ninh Munich tại Đức hồi tháng 2/2024 với tư cách là khách mời. Ông lập luận như sau : « Thứ nhất, vấn đề Ukraina, theo quan điểm của Mỹ và tôi nghĩ rằng tôi đại diện cho phần lớn công luận Mỹ, là không có kết quả rõ ràng, và về cơ bản, các yếu tố hạn chế sự hỗ trợ của Mỹ dành cho Ukraina không phải là tiền, mà là đạn dược. Hoa Kỳ, châu Âu cũng vậy, không sản xuất đủ đạn dược để duy trì một cuộc chiến tranh ở Đông Âu, một cuộc chiến tranh ở Trung Đông và có khả năng là tình hình nguy cấp ở Đông Á. Do vậy, Mỹ về mặt cơ bản là bị hạn chế. Tôi sẽ cung cấp cho quý vị các thông tin chi tiết cụ thể nhất. Một PAC-3, một loại tên lửa bắn chặn Patriot, Ukraina sử dụng chỉ trong một tháng trong khi Hoa Kỳ mất một năm để sản xuất. Hệ thống tên lửa Patriot chậm tiến độ mất 5 năm, còn đạn pháo 155 ly chậm tiến độ hơn 5 năm. Ở Mỹ, họ đang bàn đến việc tăng sản lượng lên 100 ngàn đạn pháo/tháng từ đây đến cuối năm 2025, trong khi vào lúc này, Nga sản xuất gần 500 ngàn đạn pháo/tháng. Vì vậy, vấn đề đối với Ukraina là Mỹ không thể sản xuất đủ vũ khí, châu Âu cũng không sản xuất đủ vũ khí, và thực tế đó quan trọng hơn nhiều so với ý chí chính trị của Mỹ hay số tiền chúng tôi in ra rồi gởi sang châu Âu . » Bất luận quan điểm khác biệt về Ukraina, thuế quan và tạo việc làm hiện đang được tranh luận ở Mỹ, các nhóm về an ninh quốc gia Mỹ cũng có nhiều điểm đồng thuận để hình thành nên một liên minh, nhất là trên ba điểm chính : Thứ nhất, Trung Quốc là đối thủ chính mà Hoa Kỳ phải đối phó. Thứ hai, tiếp cận chống di dân cao độ là chìa khóa cho tái công nghiệp hóa đất nước. Cuối cùng, Hoa Kỳ có thể thoái lui khỏi Trung Đông bằng cách trao thêm quyền lực cho Israel để nước này đối đầu hung hăng hơn với Iran.…
T
Tạp chí tiêu điểm
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/512.jpg 512w)
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Dùng mạng X cổ vũ cực hữu: "Cánh tay phải" của Trump bị cáo buộc tấn công nền dân chủ châu Âu 9:38
Cuối năm 2024, đầu năm 2025, chính giới châu Âu đối mặt với một diễn biến chưa từng có. Tỉ phú Mỹ Elon Musk, người đã đóng góp nhiều cho chiến thắng của Donald Trump và dự kiến đảm nhiệm vị trí quan trọng trong tân chính quyền Mỹ, liên tục cổ vũ nhiều đảng cực hữu châu Âu, trực tiếp đả kích chính phủ các nước châu Âu như Đức, Anh, Tây Ban Nha. Hàng loạt tiếng nói trong chính giới châu Âu tố cáo Musk sử dụng mạng X để tung « tin giả », gieo rắc thù hận, thao túng công luận, tấn công nền dân chủ châu Âu. Các hành động của Elon Musk nhằm những mục đích gì ? Châu Âu có khả năng đáp trả ra sao ? *** Trong những ngày đầu năm 2025, tỉ phú Mỹ, chủ nhân mạng X, cáo buộc thủ tướng Anh Keir Starmer, thuộc Công Đảng, đã « đồng lõa » với mạng lưới tội phạm lạm dụng tình dục trẻ em, khi ông là lãnh đạo cơ quan công tố Hoàng gia. Elon Musk đòi bỏ tù nữ bộ trưởng Anh Jess Phillips, bị cáo buộc « phạm tội mang tính diệt chủng » đối với trẻ em gái Anh. Thủ tướng Starmer đã phải lên tiếng tố cáo Musk bóp méo thông tin để phục vụ lợi ích cá nhân, khi nữ bộ trưởng bị đe dọa tính mạng. Đọc thêm Vì sao Elon Musk công kích dữ dội thủ tướng Anh ? Nước Đức là mục tiêu khác của Musk. Trong những ngày cuối năm 2024, tỉ phú Mỹ liên tục lên án thủ tướng Olaf Scholz và tổng thống Đức Walter Steinmeier là « bất tài », « độc tài », khẳng định đảng cực hữu AfD là lối thoát cho nước Đức, đang « bên bờ vực sụp đổ về kinh tế và văn hóa » . Can thiệp bầu cử: N ắn gân Liên Âu trước khi Trump nhậm chức Trong cả hai trường hợp Đức và Anh, mục đích trực tiếp của Elon Musk là tác động đến tiến trình bầu cử, cổ vũ cho các đảng cực hữu tại hai nước này. Tỉ phú Mỹ quyết định ủng hộ Tommy Robinson, một chính trị gia cực hữu Anh hiện đang ngồi tù vì bất tuân lệnh tòa án không cho phép lặp lại các lời lẽ sỉ nhục nhắm vào một người tị nạn. Tommy Robinson cũng là người sáng lập một băng nhóm chủ trương các hành động bạo lực chống người nhập cư, người Hồi Giáo tại Anh. Ngày 06/01, Musk tung lên mạng X câu hỏi : « Nước Mỹ có nên giải phóng người dân Anh khỏi chính quyền tàn bạo của nước này ? ». Ngày 09/01, Musk có cuộc thảo luận trên mạng X với lãnh đạo đảng cực hữu Đức Alice Weidel, ít tuần trước cuộc bầu cử Quốc Hội trước thời hạn tại quốc gia trụ cột của Liên Âu. Đọc thêm Chia rẽ, vu khống, tin giả: Năm 2025 và những thách thức lớn với các nền dân chủ Nhà báo Pierre Haski, phụ trách mục Địa-chính trị của tuần báo Le Nouvel Obs, hiện là chủ tịch hiệp hội Phóng viên Không biên giới, trên đài truyền hình Pháp Public Sénat, ghi nhận hành xử mang tính hệ thống của Elon Musk : « Thoạt tiên, mọi người tưởng đây chỉ là một đòn gây ấn tượng, nhưng sau đó, Musk đã lặp lại cùng một hành động chống lại thủ tướng Anh Keir Sta r mer, và ủng hộ đảng cực hữu Reform UK. Khi lãnh đạo đảng cực hữu Reform UK không chấp nhận đi theo, Musk yêu cầu thay thế nhà lãnh đạo này. Báo Anh Financial Times có bài ‘‘Musk tìm cách lật đổ Sta r mer trước cuộc bầu cử lần tới’’. Rõ ràng là chúng ta không phải đang đứng trước một biến cố bất thường, với riêng đảng cực hữu AfD Đức. Chúng ta đứng trước một nỗ lực triệt để ủng hộ các đảng chống hệ thống tại châu Âu, hoặc nói chung là các đảng phái đi theo chủ trương bài châu Âu giống với Musk. Reform UK chính là đảng đã cổ vũ cho việc Anh rời khỏi Liên Hiệp Châu Âu. AfD là đảng thân chế độ Putin, chống Bruxelles. Đảng này cực đoan đến mức mà ngay cả lãnh đạo đảng cực hữu Pháp RN Marine Le Pen cũng không chấp nhận cho tham gia vào nhóm nghị sĩ của RN ở Nghị Viện Châu Âu . » Loạt tấn công của Elon Musk đã bị tổng thống Pháp Emmanuel Macron lên án là nằm trong chiến lược của một « International réactionnaire » (Liên minh quốc tế các thế lực phản động). Thủ tướng Tây Ban Nha Pedro Sánchez, trong phát biểu tại lễ kỉ niệm 50 năm ngày qua đời của nhà độc tài Franco hôm 08/01/2025, đã cực lực chỉ trích ông Musk: « Liên minh Quốc tế các thế lực phản động, như tổng thống Macron đã nói cách đây ít ngày, hay liên minh các thế lực siêu cực hữu, mà chúng tôi đã liên tục lên án từ nhiều năm nay tại Tây Ban Nha, do người giầu nhất hành tinh đứng đầu, đã trực tiếp tấn công vào các định chế của chúng ta, kích động hận thù, công khai kêu gọi ủng hộ các thế lực hậu thân của chủ nghĩa phát xít Đức trong cuộc bầu cử Quốc Hội sắp diễn ra tại nền kinh tế số một của châu Âu . » Chế độ « gia đình trị » t ấn công Nhà nước Pháp quyền: Cuộc đọ sức giữa 2 mô hình ? Đối với nhà báo Pierre Haski, liên minh Musk – Trump có kẻ thù chung là « chủ nghĩa đa phương quốc tế ». Châu Âu là mục tiêu « triệt hạ » bởi vì xã hội châu Âu dựa trên luật pháp, không chấp nhận tham vọng tái lập « uy quyền tuyệt đối » của nước Mỹ theo tư tưởng Trump: « Chúng ta có liên minh giữa Trump và Elon Musk – người muốn tái lập uy quyền tuyệt đối của nước Mỹ, chống lại chủ nghĩa đa phương. Musk căm ghét chủ nghĩa đa phương, tức là quản lý tập thể các vấn đề của thế giới, với Liên Hiệp Quốc, với các tổ chức chuyên trách. Các tập đoàn công nghệ muốn ít quy định hơn, muốn ít trở ngại hơn đối với các hoạt động của họ. Có sự liên kết giữa hai thế lực , quyền lực chính trị với quyền lực kinh tế - công nghệ, như trong thế giới hiện tại. Trọng tâm của chủ nghĩa tư bản hiện nay đang chuyển dịch về phía họ. Châu Âu là một cản lực, bởi châu Âu được xây dựng dựa trên luật pháp, dựa trên các quy tắc. Trong con mắt của họ, cản lực này cần phải bị triệt hạ . » Musk và Trump hứa hẹn nhiều thay đổi lớn, nhưng theo nhà chính trị học, chuyên gia về địa chính trị và công nghệ Asma Mhalla , mục tiêu của cặp bài trùng này là xây dựng một chế độ « gia đình trị », bất chấp luật pháp. Trong một cuộc tọa đàm trên đài France Inter, thành viên LAP - Trung tâm nghiên cứu Nhân học Địa-Chính trị của l'EHESS/CNRS - nhận định : « Những lời hứa hẹn của họ đối với chúng ta, đó là sự thay đổi cách mạng, là sự đoạn tuyệt với quá khứ. Trên thực tế, họ hoàn toàn không phải là như vậy. Ngược lại, họ chính là sự tiếp nối của những gì sai lạc của xã hội chúng ta. Cái mà họ đưa ra hoàn toàn không phải là tự do, cho dù là tự do tuyệt đối hay không. Hoàn toàn không phải như vậy, mà thực chất là : Các vị thích đi theo ông chủ nào ? Bộ máy cầm quyền nào ? Bộ máy của họ hay bộ máy trước đó ? Đây h oàn toàn không phải là mang lại một cái mới, mà là cùng một cơ chế, nhưng đã trở nên tồi tệ hơn. Tôi tin rằng, với Trump và Musk, chúng ta đang chuyển từ một Nhà nước pháp quyền của nền dân chủ phương Tây – dĩ nhiên với rất nhiều khuyết tật, với những lệch lạc méo mó đáng bị lên án… đặc biệt là từ đại dịch Covid - sang một chế độ chính trị rất khác, một chế độ ‘‘hậu - pháp quyền’’, tức một chế độ gia đình trị, chế độ của cánh hẩu, với một luận điệu cực kỳ nguy hiểm. Chế độ đó là: Nếu đi với ta, các người sẽ được hưởng lợi, nếu chống lại ta, các người sẽ bị trấn áp ! » . Hướng đến một xã hội bất cần « sự thật » … Để áp đặt một chế độ chính trị kiểu như vậy, cần phải thao túng được công luận. Chuyên gia về địa-chính trị và công nghệ Asma Mhalla chú ý đến việc những người chủ trương quan điểm này hướng đến một hệ thống tuyên truyền phủ nhận ý nghĩa của « sự thật », thái độ tôn trọng các sự kiện - vốn là nền tảng căn bản của một nhà nước pháp quyền, của chế độ dân chủ : « Tôi nhớ lại nhà báo Katharine Viner, trưởng ban biên tập The Guardian, hồi năm 2016, đã sử dụng khái niệm ‘‘Hậu - sự thật’’ (post - truth). Đây chính là cái mà họ tiếp tục theo đuổi hiện nay. Chính sách ‘‘Hậu-sự thật’’ đi liền với phổ biến những điều dối trá. Tất cả các kỹ thuật dối trá mà họ sử dụng - dù là fake news (tin giả), deepfake (tin giả với trợ giúp kỹ thuật số - trí thông minh nhân tạo), tin đồn hay thông tin tách khỏi bối cảnh… - tất cả đều là những chiến thuật bao vây, nhằm nhào nặn nhận thức của con người, nhằm thao túng công luận và các phương tiện truyền thông. Họ không còn quan tâm đến vấn đề ‘‘sự thật’’, hay chính xác hơn là ‘‘tiến trình xác định sự thật’’ (régime de vérité) nữa . Đọc thêm Mạng truyền thông QAnon, ‘‘đồng minh’’ trong bóng tối của Trump Trong khi đó, v iệc kiểm tra tính chất chân thực của các sự kiện, được thuật lại trên truyền thông, lại chính là điều cần phải tiếp tục được thực hiện, bởi đây chính là một tiêu chuẩn, khẳng định sự tồn tại của nền dân chủ chúng ta. Tính chân thực của sự kiện, dựa trên các d ữ liệu, cho phép Nhà nước pháp quyền vận hành được, ví dụ như trong trường hợp có các khiếu kiện, khiếu nại... » … Từ « mạng xã hội mở » trở t hành cỗ máy tung tin giả, tuyên truyền cho Trump Theo nhiều nhà quan sát, mạng xã hội Twitter, được Musk mua lại với 44 tỉ đô la cuối năm 2022, đã được sử dụng để phục vụ mục tiêu này. Năm 2024, mạng X (tên gọi mới của Twitter) có hơn 400 triệu người dùng, trong đó gần một phần tư là dân Mỹ. Hơn 200 triệu người theo dõi Musk trên X. Tháng 7/2024, Musk chính thức ủng hộ Trump. Trong thời gian 5 tháng trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, các thông điệp của Musk trên X được hơn 130 tỉ lượt người xem, nhiều gấp 15 lần Trump. Theo điều tra của Center for Countering Digital Hate – CCDH (Trung tâm chống hận thù kỹ thuật số), trụ sở tại Anh, được công bố hồi tháng 11/2024, chủ nhân X trong năm 2024 đã công bố 87 thông điệp về bầu cử Mỹ, bị những người kiểm tra tin giả xác định là sai lạc. 87 thông điệp của Musk, vẫn được đăng tải trên X, thu hút 2 tỷ lượt xem. Khi tiếp quản mạng xã hội X, Musk xác lập « Community Notes » (các báo động của cộng đồng người sử dụng), thay cho tính năng « Birdwatch », về danh nghĩa là để phát hiện tin giả, thay vì nhờ đến dịch vụ thẩm định bên ngoài. Tuy nhiên, theo một khảo sát của CCDH, có đến hơn 70% thông tin sai lạc về bầu cử Mỹ được đăng tải mà không đi kèm với « báo động của cộng đồng ». Và ngay cả khi có « báo động của cộng đồng », các tin giả, tin sai lạc thu hút số người xem đông gấp 13 lần các « báo động của cộng đồng » đi kèm. Nhiều tài khoản tung tin giả, thuyết âm mưu, bị đóng cửa dưới thời Twitter, nay được Musk cho trở lại. Tung hô « t ự do ngôn luận tuyệt đối » và đè bẹp các quan điểm khác X dưới quyền của kiểm soát của Musk đã trở thành một kênh tung tin giả, vận động tranh cử cho Donal Trump. Một nhóm phóng viên điều tra chuyên mục « L'Œil du 20 Heures » của đài Pháp France Info mới đây đã thử mở một tài khoản trên mạng X và đã chứng kiến thực tế là tài khoản này ngay lập tức bị hút vào quỹ đạo thông tin do chủ nhân mạng X, Elon Musk, chủ trương. Tài khoản mới lập, của phóng viên France Info, được mời theo dõi các doanh nghiệp của Musk, theo dõi tài khoản của Trump. Về mặt chính thức, tỉ phú Elon Musk cổ vũ « tự do ngôn luận tuyệt đối », đặc biệt là tự do trên mạng X, lên án chính quyền nhiều nước châu Âu kiểm duyệt, đàn áp tự do ngôn luận. Trên thực tế, X bị cáo buộc đã sử dụng « các thuật toán » giúp cho các quan điểm mà Musk ủng hộ trở nên áp đảo trên mạng này. Hai nhà nghiên cứu Laurence Grondin-Robillard và Nadia Seraiocco, Đại học Québec (Canada), trong bài « De Twitter à X : Comment Elon Musk façonne la conversation politique américaine » (tạm dịch là : Từ Twitter đến X : Elon Musk nhào nặn đối thoại chính trị Mỹ như thế nào), đã tố cáo mạng X của Musk từ bỏ chính sách « minh bạch về thuật toán » của Twitter một thời trước đây, cho phép người sử dụng lựa chọn giữa « các thông tin theo trật tự thời gian hoặc các thông điệp được nhiều người coi nhất ». Giờ đây các thuật toán - quyết định sự hiện diện của thông tin trên dòng sự kiện của người sử dụng - trở thành « hộp đen » đối với các nhà quan sát. Đạo luật DSA bảo vệ đa nguyên chính trị : Phương tiện tự vệ chính của Liên Âu Bài « L ’interférence d’Elon Musk dans les élections en Allemagne : quel rôle pour le Digital Services Act ? » (Can thiệp của Elon Musk vào bầu cử ở Đức : Luật về Dịch vụ Kỹ thuật Số của châu Âu có vai trò gì ?), trên trang mạng Le Club des Juristes, nêu bật khả năng chính quyền châu Âu sử dụng Luật về Dịch vụ Kỹ thuật Số DSA, có hiệu lực từ năm 2023 (sau ba năm chuẩn bị), để chấn chỉnh các mạng xã hội nằm trong phạm vi điều chỉnh của đạo luật này. Trong số khoảng 10.000 nền tảng trên mạng đang hoạt động tại thị trường châu Âu, chỉ có hơn 20 nền tảng là đối tượng của DSA ( theo Touteleurope.eu ). Ngoài X, còn có 16 nền tảng « rất lớn » khác, với hơn 45 triệu người sử dụng, chiếm 10% dân số châu Âu (như Alibaba AliExpress, Amazon Store, Apple AppStore, Facebook, Google Play, Instagram, TikTok, Wikipedia, Youtube…) và hai công cụ tìm kiếm Bing và Google Search. DSA không chỉ loại trừ các thông tin « bất hợp pháp », ngăn ngừa các thông tin « có hại » phổ biến rộng rãi (tin giả, tin bóp méo…), mà còn bảo vệ đa nguyên chính trị trên truyền thông. Theo đạo luật này, các nền tảng mạng xã hội « rất lớn » như X có nghĩa vụ bảo đảm cho người sử dụng « có thể lựa chọn và làm chủ thực sự các luồng thông tin mà họ cần, đồng thời tôn trọng sự đa dạng và tính đa nguyên về quan điểm với tư cách phương tiện truyền thông » (điều khoản 35, đoạn 3 của DSA). Theo tác giả bài viết trên Le Club des Juristes, giáo sư luật công Anastasia Iliopoulou-Penot (Đại học Paris II Panthéon-Assas), một số thẩm định ban đầu cho thấy các hệ thống định hướng thông tin của X dường như đã không tuân thủ đòi hỏi này. Không tuân thủ quy định của DSA, mạng xã hội X có thể bị phạt đến 6% doanh thu toàn cầu và thậm chí bị loại khỏi thị trường châu Âu. Bị đẩy vào chân tường, Liên Âu có dám mạnh tay với « cánh tay phải » của Trump ? Giới chuyên gia về kỹ thuật số và chính trị ắt hẳn không quên vụ công ty Anh Cambridge Analytica bị cáo buộc sử dụng thông tin về hàng trăm triệu người dùng Facebook để tác động đến thái độ của cử tri Anh về Brexit (chia tay với Liên Âu) và quyết định bầu cho Donald Trump hồi 2016 của cử tri Mỹ (Bài « Comment Cambridge Analytica est devenue une arme de destruction démocratique massive / Cambridge Analytica đã trở thành một vũ khí hủy diệt hàng loạt với nền dân chủ như thế nào », L'Express , ngày 04/03/2020). Nỗ lực can thiệp vào bầu cử châu Âu của Musk đã quá rõ ràng. Việc chấn chỉnh và thậm chí loại trừ mạng xã hội X của Elon Musk bắt đầu được một số chính trị gia châu Âu đặt ra khẩn thiết. Đọc thêm Khi Facebook không bảo vệ được dữ liệu cá nhân Ngoại trưởng Pháp Jean-Noël Barrot hôm 08/01 cảnh báo nếu Ủy Ban Châu Âu không áp dụng luật đã có để « bảo vệ không gian công », thì Bruxelles phải để các quốc gia thành viên « rảnh tay hành động ». Nghị sĩ châu Âu Aurore Lalucq , hôm 09/01 cho biết đã khiếu nại lên Arcom, cơ quan phụ trách thực thi đạo luật DSA ở cấp độ nước Pháp, đồng thời gửi thư đến Ủy Ban Châu Âu nhấn mạnh phải ngăn chặn X nếu công ty của Elon Musk ngoan cố, để « cứu nguy các nền dân chủ ». Về vấn đề này, nhà nghiên cứu độc lập Ophélie Coelho , chuyên gia về địa chính trị và kỹ thuật số, trong một cuộc tọa đàm trên kênh truyền hình TF1, hoàn toàn không tin vào khả năng Liên Âu có thể ngăn chặn X : « Về mặt kỹ thuật, ở cấp độ châu Âu, hay thậm chí ở quy mô từng nước, chúng ta có thể ngăn chặn hoàn toàn việc tiếp cận với nền tảng X. Ngăn chặn cả việc tiếp cận với X thông qua các phần mềm lách kiểm duyệt VPN. Vấn đề phức tạp hơn, đó là : Các nhà hoạch định chính sách có muốn làm hay không? Về mặt chính trị, và nhất là về mặt địa-chính trị, họ có sẵn sàng gánh lấy những rủi ro, trong bối cảnh căng thẳng, khủng hoảng, chiến tranh như chúng ta biết hiện nay, khi đối đầu với Mỹ hay không? Đối đầu với Hoa Kỳ cũng có nghĩa là ảnh hưởng đến liên minh NATO. Chúng ta vốn rất phuộc vào Mỹ về khí hỏa lỏng. Có rất nhiều thứ cần phải cân nhắc. Về mặt địa - chính trị, theo tôi, họ sẽ không làm ». Trong một số cuộc trả lời báo chí Đức ( Frankfurter Allgemeine Zeitung ) và Phần Lan ( đài phát thanh - truyền hình quốc gia Đài Loan Yln ) tuần lễ thứ hai của tháng 1/2025, phó chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, chính trị gia Phần Lan Henna Virkkunen, phụ trách lĩnh vực Chủ quyền công nghệ, An ninh và Dân Chủ, đã tỏ rõ thái độ cứng rắn với cảnh báo : nếu phạm luật, công ty X sẽ phải « nộp phạt và gánh chịu nhiều trừng phạt đáng kể ». Ngày 24/01, giới chức châu Âu phụ trách kỹ thuật số có sẽ cuộc họp với các lãnh đạo Đức. Việc mạng X của Elon Musk can thiệp bầu cử châu Âu ắt sẽ là chủ đề trọng tâm (công ty của tỉ phú Musk đang bị châu Âu điều tra từ cuối năm 2023, do nghi ngờ vi phạm luật DSA).…
T
Tạp chí tiêu điểm
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/512.jpg 512w)
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Ưu tiên an ninh - quốc phòng : Ba Lan trong nỗi lo sợ Nga thường trực 11:33
11:33
הפעל מאוחר יותר
הפעל מאוחר יותר
רשימות
לייק
אהבתי11:33![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Từ ngày 01/01/2025 đến hết ngày 30/06/2025, Ba Lan đảm nhiệm vai trò chủ tịch luân phiên Liên Hiệp Châu Âu. An ninh của khối sẽ là ưu tiên hàng đầu, bởi vì với cuộc chiến xâm lược Ukraina, Nga lại trở thành một mối đe dọa cho Ba Lan. Sự việc cho thấy rõ mối quan hệ phức tạp giữa Matxcơva và Vacxava vì những vấn đề quá khứ lịch sử, những cạnh tranh chiến lược và địa chính trị tại vùng Đông – Trung Âu. « Chính sách Lịch sử » Tính chất phức tạp trong quan hệ Nga - Ba Lan được giải thích bởi nhiều yếu tố vừa mang tính lịch sử, vừa có tính địa chính trị.Trong một bài viết đăng trên trang Diploweb (ngày 09/03/2014), sau khi khủng hoảng Ukraina bùng nổ với việc Nga xâm chiếm và sáp nhập bất hợp pháp bán đảo Crimée, hai nhà nghiên cứu người Ba Lan thuộc trường đại học Silésie (Katowice, Ba Lan) là Kamil Golas, chuyên gia về không gian hậu Xô Viết và Mateusz Hudzikowski, chuyên ngành Quan hệ Quốc tế, trước hết đã nhấn mạnh rằng « Lịch sử » đóng một vai trò to lớn, thậm chí quyết định, trong chính sách đối ngoại của hai nước, trong đó có mối quan hệ Nga – Ba Lan. Nhiều sự kiện có liên quan trực tiếp đến Nga – được xem như là kẻ thù lâu đời của Ba Lan – hầu như ngự trị rộng rãi trên các mạng truyền thông và đời sống chính trị đất nước. Ba Lan thường xuyên bị đánh giá là một đất nước chỉ nhìn về quá khứ thay vì hướng đến tương lai. Hiện tượng này phổ biến đến mức được gọi là « chính sách lịch sử ». Cái nhìn tiêu cực về Nga là kết quả một lịch sử đế chế và chiếm đóng trong gần ba thế kỷ của Nga. Sách sử Ba Lan luôn nhắc đến những lần đất nước bị tước mất nền độc lập, bị chia để trị bởi ba đế chế Sa hoàng, Áo và Phổ vào thế kỷ XVIII, bởi hiệp ước giữa Stalin và Hitler năm 1939, còn được gọi là Hiệp ước Molotov – Ribbentrop, và đặc biệt là giai đoạn sau Đệ Nhị Thế Chiến, bị lệ thuộc vào Liên Xô và bị áp đặt chủ nghĩa cộng sản (1945 – 1989). Nhìn từ Ba Lan, chế độ Xô Viết sụp đổ năm 1991 thật sự là một phép mầu sau ba thế kỷ dưới mối đe dọa Nga và phụ thuộc vào Matxcơva. Tương tự, tại Nga, quá khứ lịch sử cũng có một tầm quan trọng. Nga luôn nhắc đến giai đoạn từng bị đế chế Ba Lan đô hộ vào thế kỷ XVII. Rồi trong một thời gian dài, Nga đã từng là một siêu cường, và sức mạnh này cần phải được khôi phục. Sự sụp đổ của chế độ cộng sản đối với nhiều người Nga là một thảm họa thực sự cho đất nước. Nhưng ý tưởng khôi phục một « đế chế Nga », dù chỉ là trong các phát biểu của ông Vladimir Putin, các phát biểu tuyên truyền, hay trò chơi tâm lý, lại là điều khiến Ba Lan lo sợ. Thảm họa Smolensk: Một bước rẽ trong quan hệ Nga – Ba Lan Các câu chuyện về xung đột đã trở thành một mặt đời sống chính trị ngày càng không thể thiếu trong suốt hơn một thập kỷ qua ở Ba Lan. Ngay từ năm 2008, sau khi Nga phát động cuộc chiến xâm lược chống Gruzia, tổng thống Ba Lan thời bấy giờ là Lech Kaczynski từng tuyên bố : « Ngày hôm nay là Gruzia, ngày mai là Ukraina, hôm sau nữa sẽ là các nước vùng Baltic, và có thể đến một thời điểm nào đó, sẽ là Ba Lan, đất nước tôi ! ». Tuyên bố này giờ còn mang nặng ý nghĩa khi nhìn vào những gì đang diễn ra tại Ukraina hiện nay, theo như nhận định từ nhà nghiên cứu về quan hệ Pháp – Đức, Paul Maurice, Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI) trên đài truyền hình ARTE : « Không một nước nào lắng nghe Ba Lan cả, bởi vì, đối với Pháp, mối nguy an ninh là ở nơi khác, đến từ phía nam, vùng Sahel ở châu Phi hay từ các nước Bắc Phi. Nhưng Ba Lan đã cho thấy rằng nước này đã đúng về mối họa an ninh đến từ Nga. Điều này đã cho phép Ba Lan chủ động trên nhiều chủ đề ». Có lẽ sự kiện « thảm họa Smolensk » là bước rẽ quan trọng trong quan hệ Nga – Ba Lan. Ngày 10/04/2010, ông Lech Kaczynski, anh trai của Jaroslaw Kaczynski, lãnh đạo đảng PiS – Công lý và Pháp luật – cùng nhiều quan chức chính phủ cao cấp khác, tổng cộng 96 người, đã bỏ mạng trong một tai nạn hàng không tại thành phố Smolensk của Nga khi đến dự lễ tưởng niệm vụ « thảm sát Katyn ». Đây là một tranh chấp lịch sử chưa bao giờ được Nga thừa nhận: 22 ngàn sĩ quan Ba Lan bị Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD) hành quyết theo lệnh của Staline năm 1940. Tai nạn hàng không này cho đến giờ vẫn chưa được làm sáng tỏ, Nga vẫn luôn từ chối giao phần các mảnh vỡ máy bay còn lại cho phía Ba Lan để điều tra. IMBMN : Nút thắt chiến lược cho Ba Lan Điểm thứ hai gây khó khăn cho quan hệ Nga – Ba Lan là giữa hai nước có các lợi ích, các tầm nhìn địa chiến lược và địa chính trị rất khác biệt, thậm chí là đối nghịch. Ba Lan xem việc gia nhập NATO – Liên minh Bắc Đại Tây Dương, là một cơ hội để tăng cường năng lực phòng thủ và hiện đại hóa quân đội. Nhưng đối với Matxcơva, quyết định này của Vacxava là một hành động cản trở Nga thực hiện các tham vọng của mình tại châu lục, do vị trí địa lý chiến lược của nước này tại châu Âu. Trong vấn đề này, yếu tố lịch sử một lần nữa được nhắc đến. Những tham vọng này của Nga thúc đẩy Ba Lan khám phá lại một thực tế chính trị được dựa trên huyền thoại : Nút thắt chiến lược của Dải đất biển Baltic – Hắc Hải (IMBMN). Đây là một dự án chưa kịp hoàn thành, nhằm xây dựng liên minh các nước nằm trên dải đất đi từ biển Baltic đến Hắc Hải (IMBMN), từng được Jozef Pilsudski, Quốc trưởng Đệ Nhị Cộng Hòa Ba Lan (1918-1922) đưa ra sau khi đế chế Sa hoàng sụp đổ năm 1918. Theo dự án, Liên minh các nước vùng biển quy tụ Ba Lan, Litva, Belarus và Ukraina nhằm mục tiêu tăng cường sức mạnh của vùng và để chống Nga. Ông Maciej Bukowski, chuyên gia về an ninh năng lượng, trên trang Le Grand Continent, ngày 18/03/2021, từng giải thích : « Chỉ khi Chiến tranh lạnh kết thúc, một cường quốc, hiển nhiên là Hoa Kỳ, mới thấy được tầm quan trọng của dải đất đi từ biển Baltic đến Hắc Hải (IMBMN) và dùng chúng để ngăn cản các thế lực thống trị trên bộ mà Liên Xô đã từng có . » Việc Ba Lan trở thành thành viên của NATO và Liên Hiệp Châu Âu đã phần nào giúp thực hiện chiến lược mà Mỹ đề ra sau Đệ Nhị Thế Chiến : Kiểm soát viền hàng hải Á – Âu. Liên Xô sụp đổ, Mỹ đã có thể can dự chính trị vào vùng lãnh thổ IMBMN. Sau khi mở rộng NATO năm 1999 và bất chấp phản đối của Nga, vùng Đông – Trung Âu, đã và vẫn được Mỹ che chở bởi các bảo đảm an ninh, mà phần đông các nước tại IMBMN xem như là một nền tảng trung tâm cho cơ cấu an ninh của vùng. Niềm tin vào năng lực triển khai sức mạnh quân sự Mỹ tại vùng Á – Âu đã cho phép các nước trong vùng IMBMN dành được 30 năm sau cùng để hội nhập với thị trường thế giới cũng như là hội nhập với Liên Âu. Đối với Ba Lan, tiến trình này giúp cho đất nước đạt được một số mục tiêu kinh tế và chính trị được xác định là « không thể thiếu » để có thể đuổi kịp quãng thời gian bị mất dưới thời kỳ cộng sản. A2AD : Đối sách của Nga chống IMBMN Rõ ràng giữa Ba Lan và Nga các lợi ích địa chính trị là không tương thích. Sự phụ thuộc của Vacxava vào Washington, hình thành trong những năm 1990, được thể hiện rõ qua mối quan hệ đồng minh bền vững, dù là bất cân đối. Trong nhãn quan của Mỹ, Ba Lan có vai trò lá chắn hàng đầu chống lại thế mạnh quân sự Nga tại vùng địa lý giáp với IMBMN. Ngược lại, đối với Nga, IMBMN cũng nằm trong vùng triển khai lực lượng quan trọng của nước này. Matxcơva ý thức được rằng bài toán duy trì vị thế cường quốc lớn của đất nước tại châu Âu sẽ phải được giải quyết ở điểm này. Liệu đó có là nguyên nhân để giải thích cho cuộc chiến xâm lược Ukraina hiện nay? Nhìn vào thế trận hiện nay, ngoài Belarus đã nằm trong vòng kềm tỏa của chủ nhân điện Kremlin, quả thật, chỉ còn mỗi Ukraina vẫn chưa hoàn toàn hội nhập vào thế giới phương Tây như hai nước còn lại của IMBMN là Ba Lan và Litva. Trong cuộc đối đầu này, Nga dường như đã có bước đi trước là hoàn thiện các hệ thống chống tiếp cận A2AD, và khôi phục các năng lực chiến tranh đối xứng (nhờ vào chương trình cải cách quân đội của Serdyukov), trong khi Mỹ và NATO mất một thập niên để bắt kịp binh pháp bất cân xứng phổ biến của quân đội Nga. Bức tường chống xâm nhập được Nga thiết lập đi từ phía bắc Biển Baltic và dọc theo sườn phía đông của NATO, của Ukraina, của bán đảo Crimée, Hắc Hải, eo biển Thổ Nhĩ Kỳ cho đến tận đông Địa Trung Hải. Theo ông, Maciej Bukowski, chiến lược này sẽ khiến hải quân Mỹ khó thể triển khai lực lượng một cách hiệu quả trong vùng trong trường hợp xảy ra xung đột giữa một thành viên của NATO và Nga. Ông viết : « Ví dụ, hạm đội Hoa Kỳ có nguy cơ không thể tiến vào Biển Baltic qua eo biển Đan Mạch. Khả năng hỗ trợ Ba Lan và/hoặc các nước vùng Baltic của Hoa Kỳ khi đó sẽ phụ thuộc vào một thỏa thuận với Đức cho phép quân đội Mỹ đi qua lãnh thổ của nước này nếu cần thiết. Nếu không có thỏa thuận như vậy, các lữ đoàn hạng nặng của Mỹ sẽ khó có thể tới được Ba Lan ». Tự chủ quốc phòng là quốc sách ? Trong trường hợp này, NATO khó thể giúp được các quốc gia vùng Baltic, nơi Nga có hệ thống A2AD để bảo vệ và vô hiệu hóa các tuyến đường hàng không và đường biển của liên minh. Điều này có nghĩa là nền độc lập của các quốc gia vùng Baltic phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có vị trí địa lý và chính trị của Ba Lan. Thực tế địa chính trị này đã xác nhận một ý tưởng ngày càng lưu hành phổ biến tại Ba Lan, theo đó, chính quyền Vacxava không những phải củng cố chính sách an ninh được tiến hành song song với Mỹ, mà còn phải phát triển các phương tiện của riêng mình để khẳng định vai trò lãnh đạo của Ba Lan tại vùng IMBMN. Nói một cách khác, Ba Lan phải gia tăng mua sắm và sản xuất vũ khí. Tuy nhiên, ông Paul Maurice, lưu ý, điều này không đồng nghĩa với việc Ba Lan sẽ tự chủ hoàn toàn và độc lập với chiếc ô an ninh của Mỹ : « Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk từng có những lập trường như chúng ta thấy qua các dòng tweet của ông ngay trước khi bầu cử Mỹ kêu gọi tỉnh thức và nhấn mạnh tính cần thiết về sự tự chủ của châu Âu trước nỗi lo Donald Trump trở lại. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông Tusk muốn cắt đứt tất cả các mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương. Ông ấy bám chặt sâu sắc vào mối quan hệ này, bởi vì đó là vấn đề an ninh của Ba Lan. » Hiện Ba Lan là quốc gia duy nhất trong khối NATO dành nhiều ngân sách nhất cho quốc phòng với 4,12% của GDP. Vacxava hy vọng các thể lôi kéo các nước thành viên khác có chính sách tương tự !…
Năm 2024 vừa khép lại trong một thế giới hỗn loạn. Năm 2025 sẽ mở đầu với sự trở lại ngoạn mục của tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump. Một khi chính thức nhậm chức vào ngày 20/01/2025, ông sẽ phải đưa ra các lựa chọn để thực hiện. Đứng đầu danh sách là mối quan hệ địa chính trị căng thẳng giữa Hoa Kỳ với Nga và Trung Quốc. Đối với Nga, câu hỏi đầu tiên đặt ra là Washington sẽ có mối quan hệ như thế nào với Matxcơva và Vladimir Putin ? Lập trường của Mỹ về Ukraina cũng sẽ bắt đầu từ đây. Trang mạng Responsible Statecraft gần đây có bài nhận định cho rằng thất bại ở Ukraina xuất phát từ tình trạng thiếu đoàn kết ở phương Tây, khi mà Hoa Kỳ, Anh, và Liên Hiệp Châu Âu có những xung đột về lợi ích trong nhiều vấn đề chính như lệnh trừng phạt, mục tiêu chiến tranh, hỗ trợ tài chính và quân sự… « Không thể đạt được thỏa thuận nếu không nói chuyện với Putin » Ngoài ra, một trong những điểm yếu của trong chính sách về Ukraina của chính quyền Biden cũng như của nhiều nhà lãnh đạo châu Âu là thái độ kiên quyết không đối thoại với Vladimir Putin. Trong một bài viết trình bày quan điểm « America First », đặc sứ Mỹ về Ukraina của Trump, tướng Keith Kellogg, đã chỉ ra "sai lầm" của chính quyền Biden, đó là bất kỳ cách tiếp cận nào đối với Nga đều phải bao gồm cả khả năng răn đe và ngoại giao. « Biden đã không quan tâm đến làm việc với Putin. Ông ấy chỉ muốn lên lớp và cô lập ông ta ». Một « Quick Deals », tức nhanh chóng có được thỏa thuận là những gì ông Donald Trump mong muốn và do vậy, Ukraina sẽ là một trong những hồ sơ đầu tiên về đối ngoại mà tổng thống đắc cử Mỹ sẽ phải nhanh chóng quan tâm đến. Tuy nhiên, theo quan sát từ nhà nghiên cứu về Mỹ, Alexandra de Hoop Scheffer, chủ tịch nhóm cố vấn German Marshall Fund (GMF), những tuần gần đây, chính quyền Trump dường như đang điều chỉnh lại chiến lược. Xu hướng chủ đạo hiện nay là « Hãy cẩn trọng, chớ nên ký kết một thỏa thuận tồi với Putin ». Trên đài France Culture, nữ chuyên gia địa chính trị tại GMF giải thích : « Bởi vì trước hết, Trump sẽ trông như một kẻ thua cuộc. Chúng ta đều biết rõ là ông ấy rất quan tâm đến hình ảnh "người chiến thắng". Điểm thứ hai liên quan đến cảm nhận của Trung Quốc về thỏa thuận này với ông Putin. Cuối cùng, theo tôi, đây cũng là lập luận mạnh mẽ nhất mà châu Âu tác động rất nhiều kể từ khi ông Trump tái đắc cử, đó là "hãy cẩn trọng, chớ để Ukraina trở thành một Afghanistan của Donald Trump". Bởi vì đó cũng là di sản để lại từ cuộc rút quân hỗn loạn mà chính quyền Biden thực hiện năm 2020, nhưng được quyết định bởi Donald Trump . » Vai trò nào cho Trung Quốc ? Câu hỏi đặt ra ở đây là Trung Quốc sẵn sàng đi đến đâu để hậu thuẫn đối tác Nga « vô bờ bến ». Chủ tịch Tập Cận Bình tỏ ra ít phản đối công khai đối với cuộc chiến của ông Putin tại Ukraina, ngược lại, Trung Quốc cung cấp công nghệ quân sự và một sự hậu thuẫn cần thiết cho Nga. Ý thức rõ vấn đề này, sau cuộc họp ba bên tại Paris giữa tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump, tổng thống Pháp Emmanuel Macron và nguyên thủ Ukraina Volodymyr Zelensky nhân lễ mở cửa trở lại Nhà thờ Đức Bà sau 5 năm trùng tu, ông Donald Trump đã tweet rằng « China can help » - Trung Quốc có thể giúp đạt được một thỏa thuận với Ukraina. Chuyên gia về Mỹ Alexandra de Hoop Scheffer ghi nhận ngày càng có sự liên hệ giữa các mặt trận châu Âu – Đại Tây Dương, Trung Đông và Ấn Độ - Thái Bình Dương trong cách tiếp cận của Donald Trump nhằm tạo áp lực với nguyên thủ Nga. Do vậy, bà cho rằng, « sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu trên đường đến Matxcơva hay trên đường trở về từ Matxcơva, ông Trump sẽ dừng lại ở Bắc Kinh và đề nghị Tập Cận Bình gây áp lực lên Vladimir Putin. Bởi vì chúng ta biết rằng, ông Putin ngày nay sẽ không thể tiếp tục nỗ lực chiến tranh nếu không có sự hỗ trợ từ Trung Quốc. Trên thực tế, việc để Trung Quốc đóng một vai trò, không phải là trung gian hòa giải, mà là trong mọi trường hợp để tạo áp lực trong cuộc đàm phán trên nền tảng một thỏa thuận về Ukraina . » Cũng theo nhà nghiên cứu về Mỹ, cách tiếp cận này được thấy rõ qua những gì diễn ra tại Syria : « Phản ứng của Donald Trump khi nhà độc tài Bachar Al-Assad bị các lực lượng Hồi giáo nổi dậy lật đổ là: "Vladimir Putin, hãy cẩn thận, chẳng phải ông đang hứng chịu thảm họa tệ hại nhất tại Syria, thất bại địa chính trị lớn nhất trong chính sách đối ngoại của ông hay sao ? Và có lẽ đã đến lúc ông nên ngồi vào bàn đàm phán về Ukraina. " » Kịch bản khả năng leo thang xung đột ? Nhưng Donald Trump cũng có thể sẽ đối mặt với một Vladimir Putin cứng rắn. Tổng thống Nga tuy nhiều lần nói ông sẵn sàng hợp tác với đồng nhiệm Trump và với nhiều nhà lãnh đạo khác của thế giới để giải quyết khủng hoảng Ukraina, nhưng ông cũng tỏ ra không mấy quan tâm đến các cuộc đàm phán nghiêm túc, theo ghi nhận từ một số nhà quan sát. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Alexandra de Hoop Scheffer, trên đài phát thanh France Culture, châu Âu dường như đã đánh giá thấp và bỏ qua một kịch bản : « Đây là một kịch bản rất có thể xảy ra, tức là ông sẽ phải đối mặt với một Putin nói với ông rằng, " Donald, cảm ơn rất nhiều vì thỏa thuận của ông, nhưng quả thực, tôi thực sự không quan tâm lắm đến điều này, bởi vì tôi đang giành chiến thắng. Tôi có Bắc Triều Tiên bên cạnh tôi và do vậy, đây chưa phải lúc. " Đối diện với sự từ chối của ông Putin, phản ứng của Donald Trump là sẽ không phải là rút khỏi Ukraina mà ngược lại sẽ là leo thang quân sự. Họ đang thảo luận về khả tăng cường hỗ trợ cho Ukraina, gia tăng trừng phạt nhắm vào Vladimir Putin và nước Nga, để một lần nữa buộc ông ấy vào bàn đàm phán ». Trong tất cả những kịch bản này, thách thức lớn đặt ra cho châu Âu là làm thế nào bảo đảm có được một vị trí trong các cuộc đàm phán. Đây chính là những gì Ba Lan sẽ nỗ lực thực hiện trong vai trò chủ tịch luân phiên Liên Hiệp Châu Âu hiện nay. Chính sách « thầu khoán » xử lý khủng hoảng Ngoài ra, nếu có đạt được thỏa thuận thì đó chỉ là một sự đóng băng xung đột, tức là một vùng đệm phi quân sự giữa Nga và Ukraina sẽ được thiết lập dọc theo chiến tuyến. Vùng Donbass và bán đảo Crimée sẽ được cho là thuộc sở hữu của Nga, kèm theo đó là Ukraina phải từ bỏ tham vọng gia nhập NATO ít nhất trong một thời hạn là 20 năm. Đây chính là những gì đang được hình thành trong kế hoạch của Trump. Đổi lại, Mỹ sẽ tiếp tục hỗ trợ quân sự cho Ukraina để ngăn chặn Nga mở một cuộc xung đột mới. Trong kịch bản này, châu Âu sẽ phải làm gì ? Nữ chuyên gia về chính sách đối ngoại Mỹ Alexandra de Hoop Scheffer trên làn sóng France Culture đưa ra cảnh báo : « Hoa Kỳ dưới thời Trump đã rất rõ ràng : Họ sẽ không triển khai quân để giúp giám sát đường chiến tuyến. Trách nhiệm này sẽ thuộc về châu Âu và chúng ta cần phải tự lo lấy. Đây là một trong số các mục tiêu của Ủy Ban Châu Âu mới của bà Von Der Leyen: tăng cường, tăng cường, tăng cường nhiều hơn nữa các danh mục đầu tư quốc phòng, nhưng với một mốc thời gian sẽ dài hơn rất nhiều so với những gì chúng ta sẽ cần trong tức thì. Nhưng chúng ta cũng thấy là trong lập luận của Trump không còn trong những cuộc tranh luận nhàm chán về " burden sharing " tức là chia sẻ gánh nặng, mà đúng hơn là " burden shifting " , nghĩa là chuyển giao gánh nặng. Ông ấy muốn giao khoán trách nhiệm xử lý khủng hoảng. Ngoại giao khủng hoảng với đủ các đối tác. Và do vậy châu Âu sẽ phải giải quyết mớ hỗn độn thời kỳ hậu thỏa thuận tại Ukraina. Với Trung Đông cũng tương tự. Donald Trump muốn giao khoán cho các nước vùng Vịnh, cho Ả Rập Xê Út, Qatar: "Đ ây là mớ hỗn độn của quý vị, quý vị hãy xử lý lấy " . Đây là một chính sách khoán thầu, bởi vì, một lần nữa, những người bỏ phiếu cho Trump đều không muốn nhìn thấy nước Mỹ sẽ lại can dự vào những cuộc chiến với những kết quả không chắc chắn . »…
T
Tạp chí tiêu điểm
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/512.jpg 512w)
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Thế giới 2024 : Một năm hỗn loạn 17:30
17:30
הפעל מאוחר יותר
הפעל מאוחר יותר
רשימות
לייק
אהבתי17:30![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Năm 2024 sắp khép lại, nhưng Trung Đông, Ukraina vẫn trong khói lửa. Tại Biển Đông và eo biển Đài Loan, nguy cơ xung đột vũ trang rình rập. Nước Pháp của tổng thống Emmanuel Macron rơi vào cảnh rối ren chính trị. Trong cảnh hỗn loạn này, nhà tỷ phú Mỹ Donald Trump đánh dấu sự trở lại ngoạn mục khi thắng cử vẻ vang. Trung Đông : Xung đột lan rộng Năm 2024 là một năm chết chóc cho vùng Trung Đông. Israel không những tiếp tục không kích chống phong trào Hồi giáo Palestine Hamas ở dải Gaza khiến hơn 45 ngàn người chết, mà còn mở rộng xung đột sang cả Liban, oanh kích các vị trí của Hezbollah, đồng minh của Hamas. Theo số liệu từ bộ Y Tế Liban, tính từ tháng 10/2023, các cuộc giao tranh giữa Israel và Hezbollah đã giết chết hơn 4.000 người tại Liban. Nhưng năm 2024 còn một năm đen tối cho Iran, Hamas và Hezbollah. Tình báo Israel lần lượt triệt hạ dàn lãnh đạo các đối thủ từ chỉ huy lực lượng Al Qods của Iran tại Syria và Liban cho đến các thủ lĩnh của phe Hamas, Hezbollah. Đỉnh điểm là vụ nổ các máy nhắn tin, bộ đàm trong tháng 9/2024 khiến 37 thành viên Hezbollah thiệt mạng và làm bị thương nặng gần 3.000 người khác. Cuộc oanh kích tăng cường vài ngày sau đó ở phía nam thủ đô Beyrouth, giết chết Hassan Nasrallah, lãnh đạo Hezbollah, đã làm rúng động khu vực. Chiến dịch « thủ tiêu » các thủ lĩnh phe Hamas và Hezbollah của Israel đã làm lung lay « trục kháng chiến ». Hệ quả là tại Syria, liên minh các lực lượng nổi dậy do lực lượng Hồi giáo Hayat Tahrir Al-Sham (HTS) dẫn đầu đã tiến hành một cuộc phản công chớp nhoáng, lật đổ chế độ Damas. Bị Nga và Iran, hai đồng minh lâu đời, bỏ rơi, nhà độc tài Bachar Al-Assad cùng người thân buộc phải bỏ chạy khỏi đất nước, đến tị nạn ở Matxcơva. Rym Momtaz, chuyên gia về Trung Đông, Viện Carnegie, trên kênh truyền hình Pháp – Đức Arte, cho rằng, đây là đòn giáng đau, một thất bại cho trục chiến lược mà Iran xây dựng từ 40 năm qua nhằm mở rộng ảnh hưởng, một tầm ảnh hưởng tai hại, cướp đi sinh mạng của nhiều người dân Syria, người dân Liban, Palestine và Israel. Nhưng đó cũng là một cơ hội để Liban thoát khỏi sự ảnh hưởng của Hezbollah, xây dựng một tương lai mới cho đất nước: « Ở vùng này của xứ sở Ả Rập, sự kết thúc của chế độ Assad có thể được so sánh với sự sụp đổ của Bức tường Berlin. Về phần Liban, điều quan trọng là phải xem trong các cuộc bầu cử tiếp theo, các chính đảng ở Liban cuối cùng có thoát được ảnh hưởng, không chỉ từ chế độ Syria trên thực tế, được tiến hành ít nhiều tùy thuộc vào các giai đoạn kể từ những năm 80 với một cuộc đàn áp đẫm máu, trong đó chế độ này với sự giúp đỡ của Hezbollah đã hạ sát một số đối thủ chính trị, những nhân vật rất quan trọng trong những năm 80 và kể từ những năm 80 cho đến ngày nay. Ngày nay, đây là một cơ hội chưa từng có để Liban hiện đại hóa đất nước, đúng hơn là có thể tự giải phóng và khẳng định chủ quyền của mình. Tôi nghĩ rằng Hezbollah sẽ khó mà áp đặt một ứng cử viên tổng thống hoàn toàn là người của họ . » Chế độ Bachar Al-Assad thất thủ, liệu đó cũng là một « thất bại » cho Nga ? Đây là điều mà tổng thống Nga Vladimir Putin trong buổi trao đổi với giới báo chí cuối năm theo truyền thống đã bác bỏ. Theo quan điểm của nhà địa chính trị học Ulrich Boulnat, sự việc cho thấy Nga khó mà tác chiến trên hai mặt trận cùng một lúc. Trên đài RFI, nhà địa chính trị học giải thích: « Điều này cho thấy trên thực tế hầu hết các nguồn lực quân sự của Matxcơva đều được dồn cho mặt trận Ukraina và do đó Nga thực sự gặp khó khăn trong việc quản lý hai mặt trận. Chúng ta phải hiểu rằng một trong những thế mạnh đặc biệt của Nga ở Syria là khả năng thực hiện các cuộc không kích quy mô lớn. Chúng tôi gần như chắc chắn rằng có khoảng 40 máy bay Nga đóng tại Hmeimmi để thực hiện các vụ đánh bom vào các khu vực nổi dậy ở Syria, nhưng do cuộc chiến ở Ukraina, số máy bay này chỉ còn khoảng một chục chiếc. Hầu hết trang thiết bị và binh lính của Nga ở nước ngoài, thậm chí ở Trung Á đều được cho rút về mặt trận Ukraina vì Nga thiếu người và trang thiết bị. Và vì vậy, việc thiếu người, thiếu máy bay chiến đấu, thiếu cả bom trên máy bay quả thật khiến Nga không thể làm gì nhiều để cứu Bachar Al-Assadvà do đó, Nga không thể làm gì khác ngoài việc đứng nhìn sự sụp đổ của Bachar Al-Assad ». Ukraina : Xung đột bị quốc tế hóa ? Sau thất bại của phản công vào mùa xuân 2023, quân đội Ukraina bất ngờ đánh chiếm vùng Kursk, tây nam nước Nga, giáp biên giới phía bắc Ukraina. Mục tiêu đặt ra là chuyển hướng quân Nga ở mặt trận phía đông nơi Ukraina đang gặp khó khăn trên chiến trường, nhưng bất thành. Ukraina giờ đối mặt với một mùa đông khắc nghiệt thứ ba khi Nga tăng cường oanh kích, phá hủy gần như toàn bộ các cơ sở năng lượng của Ukraina. Xung đột leo thang khi tổng thống Nga một lần nữa đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân với việc cho sửa đổi học thuyết hạt nhân. Cuộc chiến tại Ukraina còn bị « thế giới hóa » với việc Mỹ và các nước đồng minh châu Âu cho phép Ukraina – sau nhiều tháng đòi hỏi – được sử dụng tên lửa tầm xa để bắn phá các mục tiêu quân sự trên lãnh thổ Nga, và ở bên kia chiến tuyến là việc Bắc Triều Tiên điều hơn 11 ngàn quân sang giúp Nga, theo tinh thần Hiệp ước Đối tác Chiến lược được tổng thống Vladimir Putin ký kết với lãnh đạo Kim Jong Un nhân chuyến thăm chính thức Bình Nhưỡng ngày 19/06/2024. Nếu như sự việc gây lo lắng cho phương Tây cũng như hai nước Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng minh của Mỹ tại châu Á, thì thái độ im lặng của Trung Quốc về việc Nga – Triều thắt chặt hợp tác quân sự đã thu hút nhiều bình luận từ các nhà phân tích phương Tây, cho rằng sự việc đặt Bắc Kinh trong thế bất lợi. Một quan điểm không được Laurent Gédéon, giảng viên trường đại học sư phạm Lyon, chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn dành cho RFI Tiếng Việt ngày 05/12/2024. GV. Laurent Gédéon : « Trong phạm vi này, mối hợp tác quân sự giữa Nga và Bắc Triều Tiên dường như chủ yếu đáp ứng các yêu cầu mang tính chiến thuật và do vậy, Trung Quốc vào lúc này sẽ không có những lo lắng quan trọng nào về vấn đề đó. Quả thật, nhu cầu về đạn dược của quân đội Nga là một trong các yếu tố mạnh mẽ thúc đẩy hợp tác với Bắc Triều Tiên và nước này cũng đã tận dụng cơ hội để thoát khỏi sự cô lập sâu sắc mà họ đang phải đối mặt. Liên quan đến việc binh sĩ Bắc Triều Tiên tham gia trực tiếp vào các cuộc giao tranh, thông báo đưa ra hồi tháng 11/2024 về việc triển khai khoảng 11 ngàn binh sĩ Bắc Triều Tiên ra chiến trường đã cho thấy rằng số binh sĩ này chủ yếu trú đóng tại vùng Kursk, nằm trên lãnh thổ Nga, chứ chưa phải trên lãnh thổ Ukraina. Mục tiêu nhắm đến của Matxcơva là tận dụng sự hỗ trợ này của Bắc Triều Tiên để lấy lại quyền kiểm soát vùng Kursk trước khi Donald Trump lên cầm quyền và khả năng bước vào một giai đoạn đàm phán. Thực vậy, việc chiếm lại được vùng lãnh thổ bị Ukraina chiếm đóng sẽ tước đi một lá bài ngoại giao quan trọng của Kiev. Theo quan điểm của tôi, Trung Quốc im lặng không hẳn là vì nước này bị bất ngờ, bởi vì đối với tôi, có vẻ Nga – Trung đã liên lạc với nhau trước và sau khi Nga – Triều ký thỏa thuận. Sự im lặng này, theo ý tôi, có thể do Trung Quốc cho rằng hành động này thiên về chiến thuật, chứ không phải là một sự thay đổi chiến lược cơ bản . » Đọc thêm: Chiến tranh Ukraina và tam giác chiến lược Nga – Trung – Triều Rủi thay, trong cuộc chiến bất cân xứng này, « bên nào có thể cung cấp nhiều đạn dược cũng như là nhiều " bia người đỡ đạn " , thì bên đó có nhiều cơ may thắng thế », đây chính là những gì Nga đang có. Câu hỏi đặt ra : Liệu rằng cuộc xung đột này có thể chấm dứt vào năm 2025 như mong muốn của tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky hay không ? Mọi cặp mắt giờ đổ dồn về phía tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump ! Biển Đông, eo biển Đài Loan dậy sóng Năm 2024 ghi nhận căng thẳng gia tăng đột biến tại Biển Đông với những cuộc va chạm liên tục giữa hải cảnh Trung Quốc và Philippines. các cuộc tập trận hải quân – không quân quy mô lớn của Trung Quốc xung quanh đảo Đài Loan, trong khi ở bán đảo Triều Tiên, tình hình đã trở nên nóng bỏng với các vụ thử tên lửa đạn đạo của Bắc Triều Tiên. Căng thẳng bán đảo Triều Tiên còn bùng phát đến mức đáng lo ngại khi Bắc Triều Tiên cho xóa bỏ mọi chỉ dấu có liên quan đến việc thống nhất hai miền. Hiến Pháp Bắc Triều Tiên tháng 10/2024 chính thức xem Hàn Quốc là một « quốc gia thù địch », và lãnh đạo Kim Jong Un đe dọa « không ngần ngại » sử dụng vũ khí hạt nhân nếu bị Mỹ - Hàn tấn công. Cán cân an ninh bán đảo Triều Tiên còn trở nên bất ổn hơn khi Bắc Triều Tiên quyết định điều hơn 11 ngàn quân đến Nga trong khuôn khổ Hiệp ước Đối tác Chiến lược được ký kết giữa hai nước nhân chuyến thăm chính thức Bình Nhưỡng của tổng thống Nga Vladimir Putin hồi trung tuần tháng 6/2024. Đổi lại, Bình Nhưỡng có thể nhận được sự hỗ trợ về kỹ thuật, công nghệ quân sự từ Nga. Eo biển Đài Loan năm 2024 cũng không lặng sóng. Từ khi ông Lại Thanh Đức thuộc Dân Tiến Đảng đắc cử tổng thống Đài Loan, Trung Quốc liên tục gia tăng áp lực quân sự với các cuộc tập trận hải quân – không quân quy mô lớn, mô phỏng bao vây đảo, mà chiến dịch hải quân mới nhất là vào ngày 10/12/2024. Mục tiêu là chứng tỏ khả năng bao vây, bóp nghẹt Đài Loan, theo nhận định từ một quan chức quốc phòng cao cấp Đài Loan với AFP. Đọc thêm: Nguy cơ Trung Quốc đánh chiếm: Đài Loan chuẩn bị công luận quốc tế và trong nước như thế nào Tại Biển Đông, Philippines chọn đối đầu với hải cảnh Trung Quốc xung quanh các đảo, bãi đá ngầm có tranh chấp. Các cuộc va chạm giữa tuần duyên hai nước đã gia tăng mạnh mẽ và có phần quyết liệt hơn, khiến các nước trong khu vực lo ngại nổ ra xung đột vũ trang. Trước các hành động hung hăng của Trung Quốc, chính quyền Manila đã tăng cường hợp tác quốc phòng với nhiều đối tác, từ đồng minh truyền thống là Mỹ cho đến Nhật Bản, Úc, Pháp… Đặc biệt, lần đầu tiên, Philippines và Việt Nam đã quyết định thúc đẩy các hoạt động hợp tác song phương trong các lĩnh vực như an ninh, cứu trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa trên biển. Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 07/10/2024, giảng viên Laurent Gédéon, trường Sư phạm Lyon, nhận định về mối quan hệ hợp tác này : GV. Laurent Gédéon : « Theo quan điểm của tôi, đây là vấn đề hợp tác kỹ thuật hơn là cách tiếp cận chiến lược của chính quyền Việt Nam. Vấn đề này nằm trong khuôn khổ hợp tác quân sự và an ninh cổ điển, kiểu hợp tác này cũng tồn tại với lực lượng tuần duyên Trung Quốc. Theo tôi, trước tiên chúng ta có thể thấy sáng kiến này phản ánh tính thực dụng của các nhà lãnh đạo Việt Nam và minh họa cho chính sách giữ khoảng cách cân bằng vốn là đặc trưng của ngoại giao Việt Nam. Hợp tác về mặt quân sự với Philippines cho phép Việt Nam thể hiện là một chủ thể đáng tin cậy trước các nước khác trong khu vực, bao gồm cả Trung Quốc, và có lợi thế là thể hiện rằng Hà Nội không từ bỏ tham vọng của họ ở Biển Đông, đặc biệt là quần đảo Trường Sa. Các cuộc diễn tập chung vào tháng 08/2024, giữa thủy thủ Việt Nam và Philippines, đã xác nhận điểm này. Hai bên tập trung vào hỗ trợ và cứu hộ chứ không phải vào các hành động tấn công. Hai bên không gửi bất kỳ thông điệp thù nghịch nào tới Trung Quốc. Người ta cũng thấy rằng Việt Nam rất kín tiếng trong giai đoạn đỉnh điểm căng thẳng gần đây giữa Manila và Bắc Kinh. Trong những điều kiện này, ít có khả năng Bắc Kinh nhìn nhận là có một mối đe dọa trong diễn biến hiện nay về quan hệ giữa Việt Nam và Philippines ». Đọc thêm: Trung Quốc phải đối phó với hợp tác tuần duyên Việt Nam-Philippines ở Biển Đông ? Mỹ : Sự trở lại ngoạn mục của Donald Trump Năm 2024 còn được đánh dấu bởi thắng lợi vẻ vang của nhà tỷ phú người Mỹ Donald Trump trong một cuộc bầu cử tổng thống mang nhiều yếu tố bất ngờ, từ việc ông bị ám sát hụt cho đến việc ông Joe Biden buộc phải bỏ cuộc và để phó tổng thống Mỹ Kamala Harris lao vào tranh cử giữa dòng. Theo nhà nghiên cứu về Mỹ Alexandra de Hoop Scheffer, chủ tịch nhóm cố vấn Quỹ Marshall Đức (German Marshall Fund – GMF), việc Donald Trump thắng cử không có gì là bất ngờ, nhưng « điều gây ấn tượng là ông ấy đã mở rộng thành công cơ sở cử tri của mình trong tất cả các tầng lớp dân cư Mỹ, từ mọi xã hội nghề nghiệp, các thế hệ, cả trong các cộng đồng sắc tộc người Mỹ gốc Phi và châu Mỹ - Latinh ». Chính sách đối ngoại không phải là điều người dân Mỹ quan tâm, dù vậy, trở lại Nhà Trắng, Donald Trump ít nhất phải đối mặt với nhiều thách thức lớn : Từ thương chiến Mỹ - Trung và Mỹ - Âu, cho đến « chảo lửa » Trung Đông, hồ sơ hạt nhân Iran, an ninh châu Á, đặc biệt là tại Biển Đông và bán đảo Triều Tiên và cuối cùng là Ukraina : Tương lai nào cho nền hòa bình của nước này vào lúc Donald Trump hứa sẽ chấm dứt xung đột trong vòng 24 giờ ? Về điểm này, nữ chuyên gia người Pháp, Alexandra de Hoop Scheffer, trên kênh truyền hình ARTE, ngày giải thích : « Người có lập trường rõ ràng nhất về thỏa thuận mà ông Trump muốn đúc kết với ông Putin là phó tổng thống đắc cử J.D. Vance. Đó là việc thiết lập một vùng đệm phi quân sự giữa quân Nga và quân Ukraina dọc theo đường chiến tuyến mà trên thực tế hiện đang trong ngõ cụt . Vùng Donbass và bán đảo Crimée, sẽ được cho là thuộc sở hữu của Nga. Điều này sẽ đi kèm với một nghĩa vụ buộc Ukraina phải từ bỏ tham vọng gia nhập NATO ít nhất trong một thời hạn là 20 năm. Đây chính là những gì đang được hình thành trong kế hoạch của Trump. Đổi lại, Mỹ sẽ tiếp tục hỗ trợ quân sự cho Ukraina để ngăn chặn Nga mở lại một cuộc xung đột mới. Nhưng tôi e rằng gánh nặng kinh tế, quân sự, nhân đạo sẽ đè nặng lên châu Âu . » Pháp : Chính trường hỗn loạn Năm 2024 sẽ được ghi lại trong biên niên sử như là một năm khủng khiếp cho nước Pháp. Về đối ngoại, Pháp lại bị mất thêm các căn cứ quân sự tại châu Phi là Cộng hòa Tchad và Senegal. Về đối nội, đây là một năm « đen đủi » cho tổng thống Emmanuel Macron, bất chấp một Thế Vận Hội Mùa Hè 2024 thành công rực rỡ được thế giới ca ngợi hết lời, bất chấp việc mở cửa trở lại Nhà Thờ Đức Bà Paris sau 5 năm trùng tu được cả thế giới chào mừng. Chỉ trong vòng có một năm nước Pháp có đến bốn thủ tướng, lần đầu tiên tính từ năm 1934, và các chính phủ nối tiếp, trong nhiều tuần chỉ «xử lý thường vụ». Nguyên nhân chỉ vì một quyết định mà nhiều người chỉ trích cho là « đơn phương » của tổng thống Pháp, giải tán Quốc Hội và tổ chức bầu cử sớm sau thất bại củ đảng của ông trong cuộc bầu cử Nghị Viện Châu Âu, với hy vọng tìm lại được đa số ở Hạ Viện. Quyết định « điên rồ » này của nguyên thủ Pháp đã không mang lại kết quả như mong muốn : Nghị trường Pháp không những bị phân mảnh, không có đa số rõ rệt, mà còn cho thấy sự trỗi dậy mạnh mẽ của đảng cực hữu Tập Hợp Dân Tộc (RN) và đảng cực tả Nước Pháp Bất Khuất (LFI). Nghị trường Pháp tê liệt, không có ngân sách, đẩy nước Pháp rơi vào tình trạng bất động do thiếu đa số. Liệu rằng François Bayrou, vị thủ tướng thứ tư vừa được bổ nhiệm ngay trước cuối năm, có sẽ chịu chung số phận với người tiền nhiệm Michel Barnier, chỉ tồn tại được ba tháng do không vượt qua được cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ ? Nỗi ngờ vực chưa có lúc nào lớn như hiện nay. Bế tắc chính trị xảy ra vào lúc thâm hụt ngân sách đạt mức kỷ lục, với mức nợ công lên đến hơn 110% so với GDP, tức ở khoảng hơn 3.100 tỷ euro. Trước nguy cơ đất nước trong tình trạng mất phương hướng và bất động kéo dài, Alain Minc, một cây bút thời luận, trên đài phát thanh France Culture cảnh báo : Nước Pháp chỉ có thể thoát khỏi sự bế tắc chính trị hiện nay bằng một cuộc bầu cử mới, hoặc tổng thống, hoặc lập pháp. Một điều chắc chắn, các rối ren chính trị đã làm suy yếu rõ rệt vai trò của Pháp trên trường quốc tế, đặc biệt là trong khối Liên Hiệp Châu Âu !…
T
Tạp chí tiêu điểm
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/512.jpg 512w)
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Nguy cơ Trung Quốc đánh chiếm: Đài Loan chuẩn bị công luận quốc tế và trong nước như thế nào 22:28
22:28
הפעל מאוחר יותר
הפעל מאוחר יותר
רשימות
לייק
אהבתי22:28![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Từ năm 2022, sau chuyến thăm Đài Bắc của chủ tịch Hạ Viện Mỹ lúc bấy giờ là bà Nancy Pelosi, Trung Quốc không ngừng gia tăng sức ép quân sự với đảo Đài Loan. Đỉnh điểm mới nhất là vào ngày 10/12/2024, Trung Quốc triển khai « gần 90 tầu chiến » tại các vùng biển Hoa Đông, Biển Đông, cũng như tại eo biển Đài Loan, cao hơn nhiều so với đợt tập trận năm 2022. Kết thúc cuộc tập trận kéo dài nhiều ngày, Bắc Kinh, qua lời phát ngôn viên bộ Quốc Phòng Trung Quốc Ngô Khiêm, tuyên bố Trung Quốc là « nước duy nhất » có thể « quyết định tổ chức hay không các cuộc tập trận, cũng như là thời điểm nước này tổ chức tùy theo nhu cầu riêng » của Trung Quốc. Các cuộc tập trận của Trung Quốc mô phỏng tấn công chống tầu chiến và thao dượt phong tỏa các đường biển. AFP ngày 13/12/2024 dẫn lời một quan chức an ninh cao cấp Đài Loan, xin ẩn danh, cho biết những chiến dịch hải quân rầm rộ của Bắc Kinh là nhằm chứng tỏ khả năng bóp nghẹt Đài Loan. Trong 70 năm tồn tại, chưa lúc nào quan hệ giữa hai bờ eo biển lại trở nên căng thẳng gay gắt như trong gần một thập niên gần đây, nhất là kể từ khi ông Tập Cận Bình lên cầm quyền tại Trung Quốc vào năm 2013 và ở bên kia eo biển, Dân Tiến Đảng, chủ trương độc lập, lên lãnh đạo Đài Loan. Benjamin Blandin, tiến sĩ ngành Quan hệ Quốc tế, Viện Công giáo Paris trong một bài viết đăng trên The Conversations, đưa ra các con số ấn tượng : Số vụ tầu chiến Trung Quốc xâm nhập vùng dặc quyền kinh tế Đài Loan đã tăng từ 71 vào năm 2018 lên mức 600 vụ trong năm 2019 và tăng vọt lên 3.478 lần vào năm 2020. Riêng trong năm 2022, hơn 2.000 lần máy bay Trung Quốc đi vào vùng nhận diện phòng không của Đài Loan được ghi nhận. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong nhiều dịp khác nhau đều đưa ra cảnh báo chống mọi sự can thiệp vào chuyện nội bộ Trung Quốc, kể cả vấn đề Đài Loan, mà theo quan điểm của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đây chỉ là một đảo phản nghịch, sớm hay muộn phải được thu hồi, kể cả bằng vũ lực. Tháng 11/2022, trong cuộc điện đàm với tổng thống Mỹ Joe Biden, ông Tập Cận Bình đã nêu rõ Đài Loan là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc và do vậy đối với các cường quốc khác, hòn đảo này là một « lằn ranh đỏ » không nên vượt qua. Giới quan sát phương Tây cho rằng từ đây đến năm 2049, một cuộc tấn công chiếm đảo rất có thể sẽ trở thành hiện thực – đó là năm Trung Quốc kỷ niệm 100 năm ngày lập quốc. Cuộc tấn công có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức : Sử dụng các hệ thống vũ khí và triển khai quân đổ bộ ; khởi động cuộc chiến hỗn hợp bao gồm phá hủy các cơ sở hạ tầng chủ chốt và cắt nguồn điện hay cắt kết nối mạng Internet ; thiết lập vùng cấm bay trên không phận Đài Loan ; và thậm chí bao vây kín đảo. Trong bối cảnh này, việc Donald Trump sắp trở lại cầm quyền càng khiến cho chính quyền Đài Bắc lo ngại về những bước đi bất định của nhà tỷ phú Mỹ : Liệu tân chủ nhân Nhà Trắng có sẽ đem an ninh của Đài Loan ra mặc cả trong cuộc thương chiến với Trung Quốc ? Người dân Đài Loan cảm nhận như thế nào về mối nguy Trung Quốc tấn công ? Liệu Đài Loan có thể trông cậy vào sự hậu thuẫn từ các nước bên ngoài như Mỹ và Nhật Bản ? Anh Nguyễn Giang, thông tín viên của RFI Tiếng Việt, sau bốn tháng tham gia các khóa học ngắn hạn tại trường đại học Chính trị Đài Loan (NCCU), có dịp tham quan một số nơi và gặp gỡ trao đổi với các học giả đến từ nhiều nước trên thế giới, cũng như với người dân địa phương, trước hết ghi nhận xã hội Đài Loan, từ giới học giả, quân sự, cho đến những người dân bình thường đều rất quan tâm đến mối quan hệ với Trung Quốc. Ngành nghiên cứu về quan hệ xuyên eo biển Đài Loan là một ngành rất phát triển. Đài Loan đã chuẩn bị cho nguy cơ bị tấn công từ rất lâu, và gần như trở nên chuyên nghiệp trong việc đối phó với Trung Quốc, qua việc mở các hội thảo và thường xuyên thao dợt, tập trận trên mạng, với sự tham dự của nhiều học giả quốc tế. TTV. Nguyễn Giang : « Đài Loan áp dụng năm nguyên tắc của Tôn Tử, nhà lý thuyết quân sự nổi tiếng thời Trung Hoa cổ đại. Học thuyết chiến tranh của Tôn Tử phân tích 5 yếu tố : Thiên, Khí, Địa, Tướng và Pháp (…) Ngược lại, người dân Đài Loan nhìn nhận Trung Quốc cũng là người Trung Hoa và do vậy, họ cũng có thể dùng binh pháp Tôn Tử, cũng phân tích Thiên – Khí – Địa – Tướng – Pháp để đánh giá Đài Loan (…) Mối quan hệ xuyên eo biển gần như là những câu chuyện hàng ngày. Nhưng điều đó không có nghĩa là người dân Đài Loan có vẻ lo sợ hay là người ta cảm thấy – như một số đài báo ở bên Anh hay ở châu Âu hay như ở các nước khác – như là sắp có chiến tranh . » Các điều tra dư luận do Reuters công bố gần đây cũng cho thấy có một sự cách biệt rõ giữa các thế hệ về chủ đề hợp nhất Đài Loan với Trung Quốc. Điều tra cho thấy, tuy sống trong căng thẳng nhưng 61% số người được hỏi không tin rằng Trung Quốc sẽ tấn công ; 69% khẳng định họ sẽ đứng lên bảo vệ lãnh thổ Đài Loan, nhưng khoảng một nửa trong số này không tin quân đội Đài Loan đủ sức để chống trả trong trường hợp bị Trung Quốc bao vây và chặn viện toàn bộ. TTV. Nguyễn Giang : « Khi đến những thành phố khác, qua trao đổi với người dân bình thường, tôi thấy họ có một niềm tin là, " đều là người Trung Hoa cả, thì không có chuyện người Trung Hoa ở bên kia lại sang bắn giết bên này " . Thứ hai, khi tôi trò chuyện với một số bạn trẻ hơn, ngoài 20-25 tuổi, họ có những suy nghĩ ngược lại. Họ không quan tâm đến Trung Quốc, không coi mình là người Trung Quốc, và tự cho mình là người Đài Loan và chẳng có lý do gì để về với lục địa cả. Sự phân chia thế hệ ở Đài Loan và thái độ của họ đối với Trung Quốc là rất rõ rệt. Những người cao tuổi họ vẫn tin mình là người Trung Quốc, đó là những người có cha mẹ họ hàng từ Trung Quốc sang, hay vẫn còn anh em, chú bác ở bên đó . » Nhưng cuộc bầu cử tổng thống năm nay ở Đài Loan còn cho thấy có một xu hướng muốn « giữ nguyên trạng », nghĩa là không về với Đại Lục, mà cũng không đòi độc lập. Sự kiện này minh chứng cho một xã hội Đài Loan cởi mở, có những luồng tư tưởng rất tự do, và một xu thế tạo bản sắc riêng đang hình thành. Xu thế này cũng cho thấy là xã hội Đài Loan cũng đã có những biến chuyển nhanh trong những năm gần đây. TTV. Nguyễn Giang : « Giới học giả nước ngoài sang Đài Loan làm việc đều chia sẻ quan điểm : Giữ nguyên trạng là hình thức tốt nhất cho Đài Loan (…) Nếu bây giờ Trung Quốc không thống nhất, càng để về sau Đài Loan trở thành một xã hội rất xa lạ với Trung Quốc. Giới trẻ Đài Loan không quan tâm, thậm chí nếu không đi Trung Quốc cũng không sao. Họ đã thành một thế hệ thứ ba sống ở đây, tách biệt với Trung Hoa Đại Lục. Mức sống cao hơn, đi sang Đông Nam Á rất được coi trọng, hộ chiếu Đài Loan là một hộ chiếu rất có quyền lực và mức sống của họ tương đối ổn . » Nhìn chung, tuy luôn dưới sức ép quân sự của Trung Quốc, giới quan sát và các nhà phân tích tại Đài Loan tin rằng Trung Quốc khó thể tấn công ồ ạt Đài Loan, một mặt do những khó khăn về vị trí địa lý và mặt khác do những ràng buộc lợi ích giữa Mỹ và Đài Loan. TTV. Nguyễn Giang : « Theo trình bày của một cựu sĩ quan hải quân về hưu, đường trung tuyến ở phía Tây của đảo Đài Loan nhìn ra eo Bashi và vùng biển của Philippines, hóa ra Đài Loan rất gần với nhiều đảo nhỏ của Nhật Bản, không đơn giản là Nhật Bản ở rất xa phía bắc, ngay phía đông nam của Đài Loan đã là một số đảo nhỏ của Nhật. Thế nên, không dễ dàng gì Trung Quốc có thể đem quân, vòng ra bên ngoài hải quân để đánh từ phía đông đánh lại mà Nhật Bản có thể để yên, chắc chắn là sẽ đi vào vùng nước của Nhật Bản. Thứ hai, Hoa Kỳ luôn giữ Đài Loan như là một con xe trong trận cờ với Trung Quốc ở nhiều góc độ. Do vậy, không đơn giản là một ông Trump lên sẽ có những quyết định cá nhân đối với Đài Loan. Bởi vì đây là cả quyền lợi lâu dài của người Mỹ. Ví dụ họ muốn bảo vệ nguồn cung ứng chip bán dẫn Đài Loan, có vị trí quan trọng cho cả công nghiệp cũng như cho quân sự của Hoa Kỳ . »…
T
Tạp chí tiêu điểm
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/512.jpg 512w)
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Syria: Bachar Al-Assad bị lật đổ, bàn cờ Trung Đông bị "đảo lộn" 12:16
12:16
הפעל מאוחר יותר
הפעל מאוחר יותר
רשימות
לייק
אהבתי12:16![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Chế độ độc tài Bachar Al-Assad sụp đổ đẩy nhanh sự suy yếu ảnh hưởng của Nga và Iran tại Syria cũng như trong vùng Trung Đông. Sự kiện này khẳng định vai trò quyết định của Thổ Nhĩ Kỳ và trong chừng mực nào đó là vị thế của Israel và Mỹ trong chiến thắng của phe nổi dậy. Chỉ trong vòng 12 ngày, chế độ độc tài Al-Assad, tồn tại vững chắc trong suốt hơn nửa thế kỷ, đã sụp đổ nhanh chóng. Theo một số nhà quan sát, kết quả này không có gì đáng ngạc nhiên, mà đó là hệ quả của một quá trình xuống dốc bắt đầu từ năm 2011, thời điểm nổ ra cuộc cách mạng « Mùa Xuân Ả Rập ». Thiên thời, địa lợi, nhân hòa Chế độ Bachar Al-Assad, bị suy yếu do các cuộc biểu tình, cũng như do số lượng đáng kể các nhóm Hồi giáo cực đoan hay ôn hòa và kể cả những nhóm vũ trang phi tôn giáo, đã có thể trụ được cho đến ngày nay là nhờ vào sự hậu thuẫn của Nga và Iran. Bachar Al-Assad bị lật đổ cũng vì ông không còn được quân đội hậu thuẫn. Lực lượng trung thành với chế độ kêu gọi sĩ quan không chiến đấu và trong một động thái hiếm có, « bộ Tổng tham mưu ra thông cáo nói rằng chế độ Bachar Al-Assad đã kết thúc ». Trên thực tế, đó là một đội quân yếu kém, trang bị tồi, không còn tinh thần chiến đấu, theo như phân tích từ nhà nghiên cứu về Syria, Fabrice Balanche, giảng viên trường đại học Lyon 2, trên làn sóng RFI : « Quân đội Syria đã kiệt quệ. Cộng đồng thiểu số Hồi giáo hệ phái Alawites, vốn dĩ là nguồn cung chính cho các lực lượng quân đội trung thành với chế độ, hiến binh và các đơn vị tinh nhuệ, cũng đã kiệt sức, họ không còn muốn chiến đấu nữa. Đã có quá nhiều thiệt hại nhân mạng. Có khoảng 1/3 số đàn ông của cộng đồng, trong độ tuổi từ 20-45, đã chết trong cuộc chiến này ». Rồi nguồn hậu thuẫn từ Nga và Iran cũng bị suy giảm. Năm 2015, Nga can thiệp vào cuộc nội chiến Syria để bảo vệ đồng minh Bachar Al-Assad, trong bối cảnh chưa có xung đột Ukraina, Iran chưa « bị đánh gục » như hiện nay, và dải Gaza cũng chưa có biến cố 07/10. Ông Adel Bakawan, chuyên gia về Irak, trong chương trình Địa Chính Trị của RFI Pháp ngữ (08/12/2024), giải thích tiếp : « Từ khi chiến tranh Ukraina nổ ra, theo ước tính, Nga đã điều sang Ukraina khoảng từ 75-80% lực lượng mà trước đây họ bố trí ở Syria. Khách quan mà nói, Nga đã ở vào thế không thể ứng cứu Bachar Al-Assad. Chế độ Iran chưa bao giờ bị đe dọa cả từ bên trong lẫn bên ngoài như hiện nay. Ở trong nước là một làn sóng phản đối lớn, còn ở bên ngoài, Iran phải đối mặt với Israel và Hoa Kỳ. Và do vậy, Iran cũng không thể đến cứu Bachar Al-Assad. Trục kháng chiến cũng vậy, ở Gaza, Hamas và nhóm Thánh chiến Hồi giáo thì bị san bằng, còn phe Hezbollah ở Liban đã bị tiêu diệt. Chẳng còn ai có thể đến cứu chế độ. " Ông vua đã bị lột trần » trước mắt phe nổi dậy. » Sai lầm chiến lược của Nga Trong con mắt nhiều nhà phân tích phương Tây, sự kiện chế độ độc tài Damas sụp đổ đã cho thấy thất bại chiến lược của Nga. Cựu sĩ quan quân đội Pháp, ông Guillaume Ancel, và cũng là một cây bút thời luận về chiến sự, trên kênh truyền hình TV5 Monde nhắc lại : « Đây còn là một thất bại cho nước Nga của ông Vladimir Putin, bởi vì chính Nga đã hậu thuẫn Iran. Chính Nga hỗ trợ tất cả các nhóm vũ trang ủy nhiệm của Iran trong vùng Cận Đông. Điều chắc chắn là Nga đã châm ngòi cho cuộc tấn công khủng bố 07/10 chống Israel nhằm mở ra một mặt trận thứ hai để đánh lạc mục tiêu liên quan đến Ukraina, nhưng cuối cùng nước này cũng bị liên đới với hiệu ứng như một vụ nổ, bởi cuộc phản công bất ngờ này dẫn đến sụp đổ chế độ Damas . » Một hệ quả khác, không kém phần quan trọng của việc ông Bachar Al-Assad bị lật đổ là Nga có nguy cơ mất hai căn cứ chiến lược tại Syria, cửa ngõ cho Nga mở ra vùng Địa Trung Hải và triển khai sức mạnh quân sự ra châu Phi : Căn cứ hải quân Tartous và căn cứ không quân Hmemmim. Mất hai căn cứ này cũng có nghĩa là Nga sẽ mất ảnh hưởng tại vùng Trung Đông. Giới quan sát cho rằng, đây còn là thất bại cay đắng của quân đội và nhất là tình báo Nga. Matxcơva lẽ ra phải dự đoán rằng Israel có nhiều khả năng tấn công Syria một khi thỏa thuận hưu chiến được ký kết với phe Hezbollah. Đọc thêm: Syria : Chính quyền Putin câm lặng trước thất bại của quân đội và tình báo Thất bại của Trục kháng chiến Nhưng có lẽ trong ván cờ này, bên thua nặng nhất là Iran. Ngay khi Cộng hòa Hồi giáo ra đời năm 1979, chế độ thần quyền Iran đã thắt chặt quan hệ với chế độ Assad, một phần cũng vì có chung một kẻ thù là Irak thời Saddam Hussein trong những năm 1990 và phần khác là sự gần gũi về tôn giáo giữa hai hệ phái Shia và Alawites. Syria cũng như Irak là một trong những mắc xích quan trọng trong « Trục kháng chiến », một đại lộ để Teheran vận chuyển vũ khí chi viện cho phe Hezbollah Liban, và gây áp lực lên đối thủ lớn của mình là Israel. Việc Damas sụp đổ đã gây ra những hậu quả chiến lược to lớn, cản trở Iran cấp vũ khí cho Hezbollah, cực kỳ bị suy yếu sau các chiến dịch triệt hạ dàn lãnh đạo Hezbollah cùng với các cuộc không kích của Israel vào các cơ sở quân sự của Hezbollah trên lãnh thổ Libann cũng như tại Syria trong những tháng gần đây. Tình huống này tước mất của Iran một công cụ để gây sức ép với Israel và Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời làm suy yếu Irak, một nút thắt khác trong « Trục Kháng chiến » của Iran. Trên làn sóng RFI, Pierre Razoux, giám đốc Quỹ Nghiên cứu Chiến lược về Địa Trung Hải nhận định : « Hiển nhiên, sự kiện này đã bẻ gãy " Trục Kháng chiến " do Teheran thiết lập. Trên thực tế, từ lâu những mắc xích yếu là Irak, Liban, giờ là Syria, vốn dĩ trước đây khá ổn định và tương đối vững mạnh. Iran kể từ giờ không thể tiếp cận trực tiếp Liban qua ngả đường bộ. Phe Hezbollah Liban hoàn toàn bị cô lập . Vụ việc này cũng ảnh hưởng đến Irak. Tôi nghĩ rằng giới chức Irak hiện nay cảm thấy bị căng thẳng. Họ tự hỏi liệu sắp tới Irak có sẽ là mục tiêu tiếp theo vừa của phe thánh chiến, vừa của một liên minh giữa Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Hoa Kỳ và Ả Rập Xê Út, sau khi đã làm sụp đổ chế độ Assad tại Syria ? » Đọc thêm: Chế độ Al Assad sụp đổ: Iran mất mắt xích quan trọng nhất của « trục kháng chiến » Israel « cắt vòi bạch tuộc », Thổ Nhĩ Kỳ khẳng định vị thế Nếu như chiến thuật « cắt vòi bạch tuột » của Israel phần nào thành công, giới chuyên gia cũng nhận xét rằng tuy kẻ thù Bachar Al-Assad bị lật đổ, Israel có nguy cơ đối diện với một hiểm họa mới : Một chính quyền Hồi giáo cực đoan có thể hình thành ngay sát biên giới Israel. Tuy reo hò thắng lợi trước đối thủ Iran, cùng lúc Israel cũng có những biện pháp phòng ngừa để bảo đảm rằng các lực lượng nổi dậy hay nhiều nhánh vũ trang cực đoan khác không thể tấn công trực tiếp Israel. Chuyên gia Pierre Razoux cho biết « quân đội và không quân Israel đã liên tục oanh tạc các trại lính và nhiều vị trí quân sự, đặc biệt là các đơn vị tinh nhuệ của Bachar Al-Assad, để bảo đảm rằng các thiết bị quân sự tối tân, do quân đội kiểm soát, không rơi vào tay kẻ xấu . » Người vui mừng thắng lợi nhiều nhất là Thổ Nhĩ Kỳ. Trong chiến dịch phản công chớp nhoáng, Ankara có một vai trò quyết định, kiến tạo cho những gì diễn ra hiện nay. Với chiến dịch này, tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ đã đạt được nhiều mục tiêu chiến lược : Đầu tiên hết là tạo ra một vùng đệm quân sự ở phía bắc Syria, chia cắt mối liên hệ giữa người Kurdistan Thổ Nhĩ Kỳ và Kurdistan Syria. Bachar Al-Assad bị hạ bệ sẽ giúp hồi hương hàng triệu người tị nạn Syria trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài ra, đây còn là một thông điệp rõ ràng gởi đến đối thủ cạnh tranh Iran nhằm khẳng định vai trò « không thể bỏ qua » của Thổ Nhĩ Kỳ trong tiến trình Astana để giải quyết xung đột tại Syria. Đọc thêm: Israel vẫn oanh kích dồn dập Syria dù bị Liên Hiệp Quốc lên án Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Fabrice Balanche lưu ý, « chính Thổ Nhĩ Kỳ điều khiển những gì xảy ra tại Syria. Đây là chiến lược tân đế chế Ottoman mà Thổ Nhĩ Kỳ của ông Erdogan đã phát triển từ một chục năm qua. Chỉ có điều chiến lược này đoạn tuyệt một cách thô bạo với nguyên trạng ở Syria, với những thỏa thuận mà Thổ Nhĩ Kỳ ký kết với Nga và Iran. Tôi không chắc là Nga có thể giữ được hai căn cứ quân sự tại Syria, và nếu như vậy, ông Putin khó mà tha thứ cho Erdogan . » Âm mưu của Mỹ và Israel ? Dù vậy, giới quan sát cũng thận trọng đánh giá mọi việc chưa hoàn toàn ngã ngũ. Ý thức được những hạn chế hiện tại, Nga và Iran đã tỏ ra thực dụng, chấp nhận bỏ rơi chế độ Bachar Al-Assad. Thông tín viên của RFI tại Matxcơva, Anissa El-Jabri, trả lời đài truyền hình Pháp LCI cho biết, ngoài việc tỏ ra kín tiếng về biến cố này ở Syria, chính quyền Matxcơva trong những phát biểu chính thức có giọng điệu khá hòa dịu, không xem phe nổi dậy là những phần tử khủng bố như trước đây, mà gọi là « các chiến binh vũ trang » hay là « các phe phái đối lập khác nhau » tại Syria. Pierre Razoux, giám đốc Quỹ Nghiên cứu Chiến lược Địa Trung Hải, cho rằng Matxcơva bỏ rơi Bachar Al-Assad là để Nga và Iran có thể dàn xếp, thương lượng với các nhà lãnh đạo mới ở Syria. « Bởi vì chúng ta thấy rõ là phía Nga, điều cốt lõi là điện Kremlin muốn đàm phán với chính quyền mới tại Syria, bất kể là ai, về việc giữ Tartous và Hmemmis, hai căn cứ quân sự chính tại Syria. Vì lý do này mà Nga không tỏ ra ủng hộ đến cùng Bachar Al-Assad. Đối với Iran, thương lượng với tân chính quyền Syria về quyền được đi qua lãnh thổ để tiếp viện cho Hezbollah ở Liban, hiện đang bị cô lập hoàn toàn, là điều thiết yếu. Bởi vì trục tiếp viện chính, qua ngả Syria, Irak đã bị đóng do khu vực này nằm dưới sự kiểm soát của Lực lượng Dân chủ Syria người Kurdistan, lực lượng Hezbollah thì đã bị cô lập hoàn toàn từ khi Israel không để một máy bay nào của Iran đi vào không phận Liban . » Trong bối cảnh này, ngày 11/12/2024, giáo chủ Ali Khamenei, ba ngày sau khi chế độ Damas sụp đổ, đã đưa ra những bình luận đầu tiên khi cáo buộc « những gì diễn ra ở Syria, chẳng chút nghi ngờ, là kết quả một âm mưu của Mỹ và Israel ». Alexandre Del Valle, nhà địa chính trị học Pháp – Ý, trả lời phỏng vấn trang tin Atlantico của Pháp nêu lên một chi tiết : Lãnh đạo phong trào Hayat Tahrir Al-Sham (HTS), ông Abou Mohammed Al-Golani, « thường xuyên nhận chỉ thị từ Thổ Nhĩ Kỳ, và một cách bí mật, gián tiếp từ Mỹ, vốn dĩ đang theo dõi điều được cho là xu hướng ôn hòa hơn » của ông Golani !…
T
Tạp chí tiêu điểm
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/512.jpg 512w)
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Chiến tranh Ukraina và tam giác chiến lược Nga – Trung – Triều 17:58
17:58
הפעל מאוחר יותר
הפעל מאוחר יותר
רשימות
לייק
אהבתי17:58![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Trung Quốc và Nga có mối quan hệ đối tác « vô bờ bến ». Bắc Kinh và Bình Nhưỡng, trong quá khứ từng được mô tả như « môi với răng » lại duy trì một mối quan hệ phức tạp, nhiều mâu thuẫn. Và gần đây, Nga và Bắc Triều Tiên tuyên bố thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện. Nhưng ẩn sau các mối quan hệ song phương chằng chịt đó còn có một tam giác chiến lược Nga – Trung – Triều đối trọng với liên minh quân sự ba bên Mỹ – Nhật – Hàn tại vùng Đông Bắc Á. Mối quan hệ hợp tác được củng cố giữa Nga và Bắc Triều Tiên có vẻ đặt Trung Quốc trong thế khó, nhưng cũng có thể mang lại một lợi thế chiến lược cho Bắc Kinh trong cuộc đọ sức với Washington. Trên đây là những nhận định chung từ giảng viên Laurent Gédéon, trường đại học Sư phạm Lyon trong cuộc trả lời phỏng vấn dành cho RFI Tiếng Việt. Mời quý vị theo dõi. ---------- ********** ---------- RFI Tiếng Việt : Trước hết, ông mô tả như thế nào về mối quan hệ mà Trung Quốc duy trì với Nga ? Đó là quan hệ hữu nghị, đối tác quân sự hay đối tác thương mại ? GV. Laurent Gédéon : Cả ba tính chất này có vẻ đều phù hợp với những gì có liên quan đến quan hệ Nga – Trung. Quả thật, mối quan hệ này đã không ngừng được củng cố kể từ khi ông Tập Cận Bình lên cầm quyền năm 2013. Chúng được đánh dấu bằng một sự xích lại gần rõ nét từ đầu những năm 2020. Ngày nay, hai nước xem nhau như là những đối tác chiến lược hơn là đối thủ. Khía cạnh thân thiện được thể hiện qua nhiều chuyến thăm song phương và thực tế là cá nhân Vladimir Putin biết rõ Tập Cận Bình, người cũng luôn ca tụng đồng nhiệm Nga. Hai nhà lãnh đạo này gặp trực tiếp hơn 40 lần và Tập Cận Bình đã đến thăm Nga chín lần kể từ năm 2013, tức nhiều hơn gấp hai lần số chuyến thăm của ông đến nhiều nước khác. Đó còn là một mối quan hệ đối tác quân sự, và mối hợp tác này đại diện cho một trong những khía cạnh quan trọng cho quan hệ Nga – Trung. Chúng được thể hiện qua việc mua trang thiết bị quân sự, chủ yếu là từ Trung Quốc. Chỉ riêng năm 2010, Trung Quốc vẫn mua đến 68% trang thiết bị quân sự Nga. Mối quan hệ hợp tác này còn được thấy qua cả việc tổ chức các cuộc tập trận chung. Các đợt tuần tra không quân – hải quân đã tăng mạnh trong những năm gần đây. Tính từ năm 2017, Nga và Trung Quốc tiến hành hơn 100 cuộc tập trận chung. Quan hệ đối tác này cũng mang tính thương mại, bởi vì Nga giúp Trung Quốc đáp ứng các nhu cầu kinh tế và năng lượng. Nhìn một cách tổng quát, trao đổi thương mại giữa hai nước đã có mức tăng trưởng vượt bậc trong hai thập kỷ gần đây. Riêng giai đoạn 2000 – 2021, trao đổi thương mại hàng năm giữa Trung Quốc với Nga tăng từ 8 tỷ đô la lên gần 150 tỷ đô la. Đương nhiên, những sản phẩm năng lượng chính như than đá, khí đốt và nhất là dầu hỏa chiếm một tỷ trọng lớn hàng nhập khẩu Trung Quốc. Còn với Bắc Triều Tiên, Trung Quốc có một mối quan hệ ra sao ? GV. Laurent Gédéon : Đó là một mối quan hệ phức tạp và hàm chứa một số mâu thuẫn. Cuộc chiến Triều Tiên đã đặt nền tảng cho mối quan hệ Trung – Triều và mối quan hệ này được đánh dấu bởi sự can dự trực tiếp của quân đội Trung Quốc trong xung đột. Trong nhiều thập niên, hai nước mô tả mối quan hệ thân thiết như « môi với răng » theo như cách nói của Mao. Nhưng mối quan hệ này đã trải qua giai đoạn tồi tệ, liên quan trực tiếp đến chương trình phát triển hạt nhân Bắc Triều Tiên. Năm 2006, khi Bình Nhưỡng tiến hành đợt thử vũ khí hạt nhân đầu tiên, Bắc Kinh đã xem đấy như là một sự vi phạm đồng thuận quốc tế, xin trích, một cách « trắng trợn và trơ trẽn » và đã phản ứng bằng cách ủng hộ các trừng phạt của Liên Hiệp Quốc. Thái độ cứng rắn ngoại giao này của Trung Quốc được tiếp tục trong suốt những năm 2010 và cuối cùng lên đến đỉnh điểm là các biện pháp trừng phạt đơn phương mạnh mẽ nhắm vào Bắc Triều Tiên năm 2017. Nhưng có một yếu tố làm thay đổi diện mạo là cuộc gặp giữa Kim Jong Un và Donald Trump ngày 12/06/2018 tại Singapore, khiến Trung Quốc lo sợ Bắc Triều Tiên rời xa tầm ảnh hưởng của Trung Quốc dưới sự thúc đẩy của chính quyền Mỹ. Bắc Kinh đã quyết định tạo một động lực mới cho mối quan hệ Trung – Triều, được đánh dấu bởi chuyến công du đến Bình Nhưỡng của ông Tập Cận Bình ngày 19/06/2019. Đây là lần đầu tiên sau 14 năm một lãnh đạo Trung Quốc đến thăm Bắc Triều Tiên. Các mối liên lạc được nối lại giữa các quan chức hai nước ở nhiều cấp độ khác nhau. Kim Jong Un và Tập Cận Bình có đến 5 cuộc gặp trong năm tiếp theo. Trung Quốc còn thể hiện sự ủng hộ bằng cách cung cấp thường xuyên viện trợ kinh tế bất chấp các trừng phạt của quốc tế. Ngoài sự hỗ trợ về kinh tế, hiệp ước Trung – Triều, tức thỏa thuận phòng thủ chung được ký kết năm 1961, đã được triển hạn vào năm 2021 thêm 20 năm nữa. Giữa hai nước cũng có sự hợp tác về kinh tế, bởi vì Bắc Kinh là đối tác thương mại hàng đầu của Bình Nhưỡng, chủ yếu liên quan đến hàng nhập khẩu lương thực và năng lượng của Bắc Triều Tiên. Cũng cần lưu ý đến sự tồn tại nhiều đặc khu kinh tế cho phép tổ chức các dòng lưu thông hàng hóa giữa hai nước. Điều đó cho thấy những mối quan hệ này, giữa Nga với Trung Quốc và giữa Trung Quốc và Bắc Triều Tiên là không cùng một kiểu. Có nhiều khả năng, sự tin cậy giữa Matxcơva và Bắc Kinh có tầm quan trọng hơn là giữa Bình Nhưỡng với Bắc Kinh, bởi vì Trung Quốc luôn ngờ vực Bắc Triều Tiên. Trên bình diện chiến lược, người ta nói nhiều về tam giác Nga – Trung – Triều đối trọng với tam giác Mỹ – Nhật – Hàn tại vùng Đông Bắc Á. Đâu là vai trò chính xác của Bình Nhưỡng trong bộ tam đó ? Liệu Nga và Bắc Triều Tiên có sẽ làm mất cân bằng quan hệ bộ ba này hay không ? GV. Laurent Gédéon : Cho đến gần đây, tam giác Nga – Trung – Triều dường như cân bằng theo nghĩa Bắc Triều Tiên giữ lập trường cân bằng giữa Nga và Trung Quốc, và trên thực tế là gần với Trung Quốc hơn do vị trí địa lý. Tình trạng cân bằng này đã dẫn đến hệ quả là Bắc Kinh phối hợp với Matxcơva trong việc xử lý hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên. Cả hai nước đã cùng nhau bác bỏ lời kêu gọi của Mỹ và các đối tác của Mỹ nhằm áp đặt các trừng phạt mới nhằm vào Bắc Triều Tiên, và ngược lại, yêu cầu dỡ bỏ một số biện pháp trừng phạt. Trong bối cảnh này, việc Nga và Bắc Triều Tiên xích lại gần hơn tạo ra một yếu tố mới trong phương trình. Hiện tượng mới này có liên quan đến cuộc khủng hoảng Ukraina với hệ quả là Nga bị gạt ra ngoài lề trong quan hệ với phương Tây. Điều này đã thúc đẩy Matxcơva thắt chặt hơn nữa quan hệ với Bình Nhưỡng, dẫn đến việc tăng cường hợp tác quân sự giữa hai nước. Quan hệ Nga – Triều được thắt chặt hơn đã được chính thức hóa nhân chuyến thăm Bắc Triều Tiên của tổng thống Nga Vladimir Putin. Đây là chuyến thăm thứ hai của ông đến Bình Nhưỡng trong 24 năm cầm quyền. Nhân dịp này, cả hai lãnh đạo ngày 19/06/2024 thông báo một Hiệp ước Đối tác Chiến lược Toàn diện, trong đó bao gồm cả điều khoản « hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp một bên bị tấn công ». Hiện tại, mối quan hệ gần gũi giữa Nga và Bắc Triều Tiên dường như không làm Trung Quốc khó chịu. Bản thân Trung Quốc cũng được liên kết bởi những lợi ích chung mạnh mẽ với Nga. Cả hai quốc gia đều mong muốn thay đổi trật tự thế giới theo hướng có lợi cho họ, và do vậy, không muốn chứng kiến mặt trận chung của họ bị rạn nứt vào thời điểm nhạy cảm này. Việc xem Matxcơva và Bình Nhưỡng xích lại gần không hẳn là tiêu cực với Bắc Kinh, theo nghĩa động thái này không bị cho là mang tính thù nghịch. Chúng ta nên đặt lại tiến triển này trong bối cảnh chiến tranh tại Ukraina, vào lúc nhu cầu đạn dược của Nga ngày càng tăng, trong khi chỉ có một số ít quốc gia có thể đáp ứng, và trong số này có Bắc Triều Tiên. Vì vậy, có một khía cạnh hợp tác chiến thuật mạnh mẽ giữa hai nước như điều chúng ta thấy qua việc Bắc Triều Tiên gởi quân đến chiến trường. Ngoài ra, còn có thêm một thực tế là, theo quan điểm của Bắc Kinh, chính sách mà Washington theo đuổi đã dẫn đến hệ quả là Nga và Bắc Triều Tiên xích lại gần nhau hơn và làm tổn hại đến tình hình an ninh tại hai vùng ở lục địa Á – Âu (Ukraina và bán đảo Triều Tiên). Trung Quốc cho rằng Hoa Kỳ là bên chịu trách nhiệm chính cho các căng thẳng và là đối thủ cạnh tranh lớn của Bắc Kinh. Chính trong lập luận này mà Trung Quốc cáo buộc Mỹ đã sử dụng hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên như là một cái cớ để mở rộng sự hiện diện quân sự trong vùng, nhằm mục đích kềm chế sức mạnh Trung Quốc. Cho đến hiện tại, Trung Quốc cẩn trọng bình luận công khai về việc Nga và Bắc Triều Tiên thắt chặt hợp tác chiến lược, nhất là về việc Bình Nhưỡng dường như đã điều hơn một chục ngàn binh sĩ đến hỗ trợ Nga trong cuộc chiến xâm lược Ukraina. Làm thế nào giải thích cho sự im lặng đáng chú ý này của Trung Quốc ? Phải chăng là Trung Quốc đã bị bất ngờ ? GV. Laurent Gédéon : Như vừa rồi tôi đề cập đến, chiến tranh Ukraina là yếu tố quyết định thúc đẩy Nga và Bắc Triều Tiên thắt chặt quan hệ. Tổng thống Nga Vladimir Putin, khi thông báo về Hiệp ước đối tác Chiến lược Toàn diện, ngày 19/06/2024, đã nêu rõ, xin trích, « trong bối cảnh và trong khuôn khổ tài liệu mà chúng tôi đã ký kết, chúng tôi không loại trừ khả năng phát triển mối quan hệ hợp tác quân sự - kỹ thuật giữa Nga với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ». Trong phạm vi này, mối hợp tác quân sự giữa Nga và Bắc Triều Tiên dường như chủ yếu đáp ứng các yêu cầu mang tính chiến thuật và do vậy, Trung Quốc vào lúc này sẽ không có những lo lắng quan trọng nào về vấn đề này. Quả thật, nhu cầu về đạn dược của quân đội Nga là một trong các yếu tố mạnh mẽ thúc đẩy hợp tác với Bắc Triều Tiên và nước này cũng đã tận dụng cơ hội để thoát khỏi sự cô lập sâu sắc mà họ đang phải đối mặt. Liên quan đến việc binh sĩ Bắc Triều Tiên tham gia trực tiếp vào các cuộc giao tranh, thông báo đưa ra hồi tháng 11/2024 về việc triển khai khoảng 11 ngàn binh sĩ Bắc Triều Tiên ra chiến trường đã cho thấy rằng số binh sĩ này chủ yếu trú đóng tại vùng Kursk, nằm trên lãnh thổ Nga, chứ chưa phải trên lãnh thổ Ukraina. Mục tiêu nhắm đến của Matxcơva là tận dụng sự hỗ trợ này của Bắc Triều Tiên để lấy lại quyền kiểm soát vùng Kursk trước khi Donald Trump lên cầm quyền và khả năng bước vào một giai đoạn đàm phán. Thực vậy, việc chiếm lại được vùng lãnh thổ bị Ukraina chiếm đóng sẽ tước đi một lá bài ngoại giao quan trọng của Kiev. Theo quan điểm của tôi, Trung Quốc im lặng không hẳn là vì nước này bị bất ngờ, bởi vì, đối với tôi, có vẻ Nga – Trung đã liên lạc với nhau trước và sau khi Nga – Triều ký thỏa thuận. Sự im lặng này, theo ý tôi, có thể liên quan dến việc Trung Quốc có những phân tích cho rằng hành động này thiên về chiến thuật, chứ không phải là một sự thay đổi chiến lược cơ bản. Nhưng trong vòng một năm, Kim Jong Un và Vladimir Putin gặp nhau hai lần, trong khi cuộc gặp sau cùng giữa Tập Cận Bình và Kim Jong Un là vào năm 2019. Việc Nga và Bắc Triều Tiên xích lại gần phải chăng cho thấy ý định của Kim Jong Un muốn tách xa dần nước láng giềng khổng lồ, hay đó là dấu hiệu một sự củng cố quan hệ đối tác ba ba ? GV. Laurent Gédéon : Thật vậy, chúng ta nhận thấy chuyến công du nước ngoài đầu tiên của Kim Jong Un ngày 12/09/2023 kể từ khi kết thúc đại dịch Covid, diễn ra ở Nga chứ không phải là Trung Quốc. Chuyến thăm đến Nga trước đó của ông Kim là vào ngày 24/04/2019. Theo quan điểm của Bắc Triều Tiên, họ mong muốn không rơi vào một mối quan hệ song phương và mặt đối mặt riêng với Trung Quốc. Tái lập quan hệ với Matxcơva cho phép Bình Nhưỡng cân bằng mối quan hệ mà họ duy trì với Bắc Kinh và đưa ra một giải pháp thay thế thú vị về mặt chính tri. Nhìn từ Matxcơva, mối quan hệ được củng cố với Bình Nhưỡng cũng có những hệ quả tương tự, theo nghĩa, chúng cho phép giảm bớt tình trạng bất cân xứng chiến lược với Bắc Kinh. Trên thực tế, tiến triển của mối quan hệ Nga – Triều đã tạo ra một không gian ngoại giao không thể dự đoán cho Trung Quốc mà ở đó Nga có thể tận dụng một cách khéo léo. Hơn nữa, Bắc Triều Tiên, được trang bị vũ khí hạt nhân vĩnh viễn, giờ đã có một đòn bẩy đáng kể trong các mối quan hệ với tất cả các nước láng giềng, kể cả với Trung Quốc. Tình huống này hạn chế khả năng của Bắc Kinh gây ảnh hưởng lên Bình Nhưỡng. Tình trạng này không phải là không gây hệ quả cho Trung Quốc, bởi vì tuy giới chức lãnh đạo Trung Quốc không công khai lên án các hành động của Bắc Triều Tiên, nhưng việc họ không có khả năng gây ảnh hưởng lên Bình Nhưỡng đã làm suy yếu uy tín ngoại giao của Bắc Kinh, đó là chưa kể đến việc Bắc Triều Tiên tiếp tục chương trình phát triển hạt nhân gây bất ổn cho các nước láng giềng, đặc biệt là Hàn Quốc và Nhật Bản. Điều này đã dẫn đến việc củng cố các mối liên minh quân sự và an ninh do Mỹ dẫn đầu. Tình trạng này làm đã làm phức tạp hơn cho các lợi ích chiến lược của Trung Quốc trong vùng. Bắc Triều Tiên được trang bị vũ khí hạt nhân có thể sử dụng năng lực này như một « công cụ mặc cả » trong các cuộc đàm phán quốc tế và làm gia tăng các giá trị chiến lược của mình mà không cần phụ thuộc vào Trung Quốc. Dù vậy, như đã đề cập trước đó, lợi ích của sự hợp tác giữa các tác nhân chiến lược ba bên Nga – Trung – Triều dường như vượt lên trên những điều bất lợi cũng như động cơ thầm kín của những tác nhân này. Nhờ vào Nga, Bắc Triều Tiên rất có thể sẽ cải thiện được hiệu quả của kho vũ khí, đặc biệt là hạt nhân, nguồn cội của nguy cơ chiến tranh tại bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc sẽ tìm được lợi thế hay thêm rủi ro cho các lợi ích chiến lược của mình ? GV. Laurent Gédéon : Điều này phụ thuộc vào cách thức chúng ta phân tích tình hình. Nếu nhìn theo quan điểm song phương Trung – Triều, có lẽ Bắc Kinh sẽ không thoải mái khi trước cửa nhà mình có một đồng minh phiền phức và được trang bị năng lực hạt nhân đáng kể. Với sự trợ giúp của Nga, Bắc Triều Tiên có thể thúc đẩy nhanh chương trình phát triển vũ khí hạt nhân, dẫn đến việc Mỹ đáp trả mạnh hơn và trường hợp tệ nhất cho Bắc Kinh là sự hình thành điều mà Trung Quốc gọi là một « NATO châu Á » do Hoa Kỳ lãnh đạo và nhắm vào Trung Quốc. Do vậy, Trung Quốc rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan, bởi vì nếu chọn cách tránh xa tiến trình củng cố quan hệ Nga – Triều, Trung Quốc có nguy cơ phải chứng kiến căng thẳng kịch phát tại bán đảo Triều Tiên mà không thể giữ một vai trò quyết định nào trong diễn biến các sự kiện. Thế nên, dù muốn hay không, Bắc Kinh rơi vào tình huống đành phải ủng hộ những chuyển động do hai đối tác của mình tạo ra. Nhưng nếu chúng ta thay đổi cấp độ phân tích, và đặt câu hỏi về vị trí mà Bắc Triều Tiên đang nắm giữ trong toàn bộ vùng Á – Âu, chúng ta sẽ có một số nhận xét khá thú vị. Đặc trưng nổi bật của vùng Á – Âu hiện nay là sự xuất hiện của bốn cường quốc, hoạt động đặc biệt tích cực trên bình diện địa chính trị. Đó là Trung Quốc, Nga, Bắc Triều Tiên và Iran. Hai trong số này đã là cường quốc hạt nhân, đó là Nga và Trung Quốc ; cường quốc thứ ba trên thực tế là Bắc Triều Tiên và nước thứ tư đang có xu hướng hạt nhân hóa quân sự là Iran. Người ta nhận thấy là bốn tác nhân này đều được liên kết với nhau qua nhiều thỏa thuận khác nhau và cả bốn nước đều có những lợi ích chung. Về mặt địa chính trị, tất cả bốn nước này phụ thuộc lẫn nhau trong bối cảnh họ phải cùng nhau đối mặt với áp lực từ một tác nhân duy nhất là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, hay rộng hơn nữa là toàn bộ khối các nước được gọi là phương Tây. Một tình huống như vậy đòi hỏi Trung Quốc, Nga, Bắc Triều Tiên và Iran, nếu muốn hoàn thành các mục tiêu của mình, phải có một sự đồng thuận tối thiểu trên bình diện ngoại giao và chiến lược. Trong cấu hình này, Bắc Triều Tiên dường như ít có khả năng lao vào một trò chơi riêng rẽ cùng với Nga, gây tổn hại cho Trung Quốc, là quốc gia mà cả Bình Nhưỡng và Matxcơva đều cần cũng như là ngược lại. Trở lại với vấn đề Trung Quốc và việc hạt nhân hóa Bắc Triều Tiên, Bắc Kinh có thể tìm được một lợi thế ở việc, Bắc Triều Tiên – thông qua các hành động của mình – sẽ tăng cường khả năng răn đe Mỹ trong bối cảnh khu vực phía bắc của bán đảo Triều Tiên cũng là một lá chắn an ninh quan trọng cho Trung Quốc. RFI Tiếng Việt xin cảm ơn giảng viên Laurent Gédéon, trường đại học sư phạm Lyon .…
T
Tạp chí tiêu điểm
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/512.jpg 512w)
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Tên lửa siêu thanh Orechnik: Trò chơi leo thang xung đột của tổng thống Nga Putin 11:18
11:18
הפעל מאוחר יותר
הפעל מאוחר יותר
רשימות
לייק
אהבתי11:18![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Ngày 21/11/2024, quân đội Nga lần đầu tiên đã phóng tên lửa loại « Orechnik » nhằm vào thành phố Dnipro của Ukraina. Theo một số chuyên gia, với hành động này, tổng thống Vladimir Putin đưa ra một thách thức leo thang rất rõ ràng đối với phương Tây : Quý vị đã sẵn sàng hay chưa để Nga tấn công các cơ sở của NATO ở bất kỳ nơi nào tại châu Âu bằng các loại tên lửa siêu thanh mà quý vị không có ? Theo Le Monde, đây là lần đầu tiên trong lịch sử hạt nhân quân sự, Nga sử dụng một tên lửa đạn đạo tầm trung (IRBM), được thiết kế để mang đầu đạn hạt nhân trên chiến trường Ukraina. Tên lửa mới mang tên « Orechnik », có tầm bắn nằm trong khoảng từ 2000-3000 km. « Orechnik » : Đòn phủ đầu bất ngờ Chuyên gia Heloise Fayet, phụ trách chương trình nghiên cứu về Răn đe và Phổ biến Hạt nhân, Trung tâm Nghiên cứu An ninh, Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI), trên đài phát thanh France Culture giải thích đây là một phiên bản cải biên từ loại tên lửa cũ RS-26, từng được Nga phát triển trong những năm 2010, nhưng chương trình đã bị đình lại do quá tốn kém: « Điều thú vị ở đây là loại tên lửa này đã bị cấm trong từ năm 1987 đến năm 2019, nhờ vào Hiệp ước Lực lượng Hạt nhân Tầm trung (INF). Văn bản được ký kết giữa Hoa Kỳ và Liên Xô sau cuộc khủng hoảng tên lửa châu Âu (1977 – 1987). Vụ căng thẳng nổi tiếng này lại gia tăng giữa Mỹ và Liên Xô tại châu Âu sau khi Nga phát triển và bố trí một số loại tên lửa nhằm đáp trả việc Mỹ cho lắp tên lửa Pershing tại châu lục này. Hai đại cường thời kỳ đó nhận ra rằng việc trang bị các loại tên lửa đạn đạo có tầm bắn từ 500 đến 5.500 km tạo ra một sự mơ hồ chiến lược, bởi vì một điểm tại châu Âu đã nằm trong tầm bắn từ lãnh thổ Liên Xô, và do vậy loại tên lửa này đã bị cấm. Tuy nhiên, trong những năm 2010, Nga đã quyết định tái khởi động một số chương trình vũ khí. Kế hoạch bị Mỹ phát hiện và ông Donald Trump năm 2019 đã quyết định rút khỏi Hiệp ước INF và sau đó là đến lượt Nga . » Đương nhiên, đòn phủ đầu này của Nga đã mang lại niềm hân hoan cho những người theo đường lối cứng rắn tại Matxcơva. Còn tại các thủ đô phương Tây, hành động này của Nga đã gây bất ngờ và là một bước rẽ quan trọng trong cuộc chiến tranh Ukraina. Hành động này có thể được xem như là một thách thức từ ông Putin, theo đó, NATO không đủ sức để đối phó với các loại tên lửa « siêu thanh » của Nga mà phương Tây không hề có. Chiến lược leo thang căng thẳng Về điểm này, Ian Proud, một nhà cựu ngoại giao Anh, am tường về Nga, trên trang Responsible Statecraft (27/11/2024) đánh giá rằng phương Tây đang hiểu sai về chiến lược của Nga. Tại mỗi thời điểm quan trọng trong một thập kỷ qua, Nga tìm cách thống trị leo thang, một khái niệm Chiến Tranh Lạnh, theo đó, một quốc gia có thể kiềm chế xung đột tốt nhất và tránh leo thang nếu họ thống trị ở mỗi bậc leo thang liên tiếp, cho đến nấc sau cùng là bậc thang hạt nhân. Chiến lược này đã được Nga áp dụng kể từ khi nổ ra khủng hoảng Ukraina năm 2014. Việc sáp nhập bán đảo Crimée năm 2014 và cuộc chiến xâm lược Ukraina tháng 02/2022 là bước leo thang lớn mà NATO đã không đối đầu trực diện. Chiến lược này cũng được Nga thực hiện trong lĩnh vực ngoại giao. Người ta còn nhớ năm 2017, Matxcơva leo thang căng thẳng với Washington khi trục xuất 755 nhân viên ngoại giao Mỹ. Khi cho leo thang quá mức, Nga đánh cược rằng đối thủ của mình sẽ không sẵn sàng bước thêm một nấc thang nữa. Tại Matxcơva, có một quan điểm cứng rắn, được củng cố bởi chủ nghĩa tuần tiến của Joe Biden, cho rằng khi có căng thẳng, Nga sẽ luôn vượt trội hơn một liên minh phương Tây chia rẽ và yếu kém về mặt đạo đức. Bởi một lẽ dễ hiểu là Nga có thứ mà phương Tây không có : Quyền lực tối cao và Ý chí chính trị, để có thể đơn phương hành động. Ông Putin đã bị những người theo đường lối cứng rắn chỉ trích là đã không phản ứng trước việc phương Tây tăng cường viện trợ quân sự cho Ukraina. Do vậy, việc Nga phóng một tên lửa siêu thanh Orechnik vào một cơ sở vũ khí kiên cố của Ukraina tại Dnipro đúng là đã đánh dấu một bước leo thang mới, bởi vì đây là lần đầu tiên tên lửa đạn đạo tầm trung được sử dụng trên chiến trường. « Orechnik » : Ngưỡng hạt nhân không bị phá vỡ Theo ông Ian Proud, hành động này của Matxcơva mang nhiều ý nghĩa quan trọng, vì một số lý do. Thứ nhất, việc sử dụng tên lửa « Orechnik » cho thấy một sự leo thang mới về khả năng hủy diệt. Thiệt hại gây ra từ cuộc không kích này dường như lớn hơn đáng kể so với các cuộc tấn công thông thường khác. Về điểm này, nhà nghiên cứu Heloise Fayet, lưu ý rằng, điều thú vị ở đây, không phải ở điểm tên lửa có thể mang đầu đạn hạt nhân, mà là việc chúng có thể mang nhiều đầu đạn thông thường cùng một lúc. Trên đài phát thanh France Culture, nữ chuyên gia Pháp giải thích tiếp: « Giới chức Nga rất rõ ràng về chủ đề này. Mục tiêu của họ với loại tên lửa đạn đạo tầm trung là sử dụng nhiều đầu đạn cùng lúc và tiến hành bắn hàng loạt để có thể tiếp cận bằng tên lửa quy ước nhiều địa điểm mà trước đây chỉ có thể thực hiện bằng vũ khí hạt nhân, và do vậy cho phép tấn công dễ dàng hơn nhiều. Bởi vì, với một loại vũ khí quy ước như vậy, quý vị không vi phạm điều cấm kỵ về hạt nhân, và do vậy tấn công dễ dàng hơn nhiều các mục tiêu tại Ukraina, hay, tại sao không, ở Ba Lan, Rumani hay các nước vùng Baltic ? Điều này đặt ra câu hỏi : Chúng ta sẽ phản ứng thế nào, đặc biệt là NATO hay Pháp, trước một cuộc tấn công nhằm vào các địa điểm cho đến giờ được cho là khó thể bị nhắm đến ? » Thứ hai, theo ông Ian Proud, một ngày sau cuộc không kích, tổng thống Nga, trong bài phát biểu trước toàn dân, đã cẩn thận mô tả đây là « một cuộc thử nghiệm », đồng thời khẳng định tên lửa « Orechnik » có một khả năng triển khai vượt xa năng lực các loại tên lửa mà các cường quốc phương Tây cho phép Ukraina sử dụng để oanh kích sâu vào lãnh thổ Nga như ATACMS hay Storm Shadow. Nguyên thủ Nga còn để ngỏ cánh cửa cho các « cuộc thử nghiệm » tiếp theo của Orechnik. « Orechnik » làm lộ rõ điểm yếu của châu Âu Trong bài phát biểu, tổng thống Nga khẳng định, phương Tây chưa có một phương tiện nào để chống lại một kiểu oanh kích như ngày 21/11. Với tốc độ Mach 10, tức khoảng từ 2,5 -3 km/giây, chưa có một hệ thống phòng không nào hiện có trên thế giới, kể cả các hệ thống phòng không Mỹ bố trí tại châu Âu có thể bắn chặn. Một thông tin phần nào cũng được nhà nghiên cứu Heloise Faye, thừa nhận trên làn sóng France Culture ngày 25/11/2024: « Có một số hệ thống phòng không có khả năng bắn chặn loại tên lửa này, đặc biệt là hệ thống THAAD. Đây là hệ thống tên lửa của Mỹ và được nước này triển khai gần đây ở Israel để bảo vệ lãnh thổ Israel trước một cuộc tấn công của Iran. Vấn đề là hệ thống phòng không này cực kỳ đắt và có rất ít. Quả thật, nghĩ đến một dạng Vòm Sắt giống như hệ thống vũ khí được bố trí ở Israel trên lãnh thổ châu Âu hoàn toàn là một điều ảo tưởng . » Cuộc « thử nghiệm » của Nga đang đặt Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Pháp trong thế phải đối mặt với việc đưa Ukraina vào một tình huống mà một loại vũ khí có sức tàn phá lớn hơn có thể được sử dụng để chống phá các mục tiêu chiến lược hoặc trên chiến trường. Cuối cùng, phạm vi tấn công của Orechnik lớn hơn gấp 16 lần so với tên lửa ATACMS và Storm Shadow. Điều này đặt bất kỳ mục tiêu nào của NATO trong tầm bắn của cuộc tấn công thông thường. Theo nhiều nguồn tin từ Nga, trong cuộc không kích hôm 21/11, Nga đã phá hủy cơ sở vũ khí Yuzhmash, được xây dựng từ thời Liên Xô cũ, nằm sâu dưới lòng đất để tránh bị tấn công. Đây dường như là nơi được hãng vũ khí Rheinmetall của Đức sử dụng để sửa chữa xe tăng Leopard và Ukraina dùng làm cơ sở để sản xuất drone tầm xa. Thế nên, với việc lần đầu tiên dùng vũ khí đạn đạo tầm trung không kích Ukraina, ông Putin đã gởi đi một thông điệp rất rõ ràng đến các nhà hoạch định chiến lược quân sự của Mỹ và Anh Quốc, những nước ủng hộ việc triển khai ATACMS, hay Storm Shadow, rằng mục tiêu cụ thể sắp tới rất có thể sẽ là NATO. Leo thang xung đột : Mỹ có sẽ phản ứng ? Dù vậy, nhà nghiên cứu tại IFRI lưu ý thêm rằng, chi phí để sản xuất một loại tên lửa như vậy rất tốn kém, ước tính lên đến hàng chục triệu euro, phải mất nhiều năm để sản xuất và Nga hiện chỉ sở hữu một số lượng rất hạn chế, nhất là vẫn còn đang trong giai đoạn « thử nghiệm » như tuyên bố của nguyên thủ quốc gia Nga. Trong cuộc leo thang xung đột giữa Nga và Phương Tây, liệu tổng thống Nga có đi đến nấc sau cùng là dùng đến vũ khí nguyên tử hay không ? Chuyên gia Heloise Fayet cho biết lập trường của bà: « Theo tôi, nguy cơ sử dụng vũ khí nguyên tử là cực kỳ thấp, ngay cả khi chúng ta nói đến vũ khí hạt nhân của Mỹ, Bắc Triều Tiên, Nga… Tôi cho rằng Vladimir Putin đang tìm cách chứng tỏ rằng ông có nhiều giải pháp thay thế hơn là một cuộc tấn công hạt nhân, bởi vì ông biết rằng vũ khí hạt nhân đã không được dùng đến từ năm 1945 và thật không may là hiện nay, Nga không còn trong thế yếu trên chiến trường Ukraina. Ông Putin cũng thấy rõ là tại châu Âu và Mỹ đang có nhiều cuộc tranh luận, rồi việc ông Trump sắp trở lại cầm quyền, về nguyên tắc, là ít hậu thuẫn Ukraina hơn, và do vậy, ông ấy thật sự cũng chẳng được lợi gì nếu bị cộng đồng quốc tế gạt ra bên lề, nhất là có thể gây mâu thuẫn với đối tác Trung Quốc, vốn luôn thận trọng trong việc sử dụng vũ khí nguyên tử. Ngược lại, ông ấy sẽ tìm cách đẩy lùi dần ngưỡng sử dụng vũ khí hạt nhân khi đánh cược trên cả hai vế : Một mặt, bằng cách cho phát triển các phương tiện tấn công sâu theo quy ước, có thể cho phép ông đạt được mục tiêu chính trị nhưng không vi phạm điều cấm kỵ về hạt nhân, và mặt khác, bằng cách luôn đưa ra báo động về việc ông ấy điều chỉnh học thuyết răn đe hạt nhân Nga, để cho thấy mối đe dọa hạt nhân vẫn luôn còn đó. Một lần nữa, ông Putin có sẵn nhiều lựa chọn thay thế, kể cả tấn công mạng và nhất là, tại sao không, sử dụng vũ khí hóa học tấn công sâu để đẩy lui việc sử dụng vũ khí hạt nhân ». Về phía Mỹ, vào lúc sắp hết nhiệm kỳ tổng thống, liệu ông Biden có quyết định sẵn sàng leo thang quá mức với Putin hay không ? Điều này đòi hỏi vị tổng thống sắp mãn nhiệm phải mở rộng một cách ồ ạt, quy mô và phạm vi của các hệ thống vũ khí của Hoa Kỳ có thể được sử dụng ở Ukraina. Tuy nhiên, Ian Proud nhắc nhở, quân đội Mỹ vẫn chưa có một hệ thống tương đương đang hoạt động như Orechnik. Sắp đến ngày chính thức bước vào Nhà Trắng, liệu rằng Donald Trump có sẽ quyết định mở kho vũ khí hay không, đây vẫn còn là một điều đáng ngờ !…
T
Tạp chí tiêu điểm
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/512.jpg 512w)
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Vatican thúc đẩy hòa bình ở Ukraina trước ngưỡng cửa mùa đông thứ ba 10:32
10:32
הפעל מאוחר יותר
הפעל מאוחר יותר
רשימות
לייק
אהבתי10:32![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 10 năm 2024, đức hồng y Matteo Zuppi đã đến Matxcơva trong vai trò đặc phái viên của Đức giáo hoàng Phanxicô để tiếp tục sứ mệnh « ngoại giao nhân đạo » thúc đẩy con đường hòa bình cho cuộc chiến ở Ukraina. Phát ngôn viên phòng báo chí Toà Thánh đã xác nhận nhưng không cho biết chi tiết về chuyến đi Nga của đức hồng y Zuppi sáng ngày 14/10. Sau khi kết thúc chuyến đi, cũng không có nhiều thông báo chi tiết được công bố. Và vào cuối tuần 19/10, một cuộc trao đổi tù binh chiến tranh của đôi bên đã diễn ra qua trung gian của Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất. Chuyến đi Nga xảy ra ngay sau cuộc gặp ngắn giữa tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky và đức giáo hoàng Phanxicô tại Vatican hôm 11/10/2024. Vào lúc chiến sự lan rộng, xung đột diễn ra ác liệt hơn, về mặt ngoại giao, hai bên vẫn chưa thể ngồi vào bàn đàm phán và Vatican là một trong số ít kênh còn mở nhằm tìm kiếm giải pháp hòa bình. Cách nay 15 tháng, đặc phái viên của giáo hoàng đã tới Matxcơva. Liệu đây có sẽ là chu kỳ được lặp lại ? Ngài có tiếp tục đi Kiev, Bắc Kinh và Washington hay không ? Tại sao lại tới M a txcơva ? Thông cáo của Văn phòng báo chí Toà Thánh giải thích rằng chuyến đi diễn ra « trong khuôn khổ nhiệm vụ mà đ ức g iáo hoàng Phanxicô giao phó cho [Zuppi] vào năm 2023 , đó là gặp gỡ các nhà chức trách và đánh giá các nỗ lực tiếp theo nhằm tạo điều kiện cho việc đoàn tụ gia đình của trẻ em Ukrain a và trao đổi tù nhân, nhằm đạt được h òa bình mà nhiều người mong đợi ». Tuyên bố có ba điểm quan trọng : Thứ nhất, đức hồng y Matteo Zuppi đến Matxcơva với tư cách là đặc phái viên hòa bình của Vatican, một vai trò mà ngài đã đảm nhiệm từ tháng 5/2023. Thứ hai, chuyến đi có hai mục tiêu. Đầu tiên hết là giúp đỡ gần 20.000 trẻ em Ukraina bị bắt đến Nga được trở về với gia đình. Mục tiêu thứ hai này cũng thúc đẩy trao đổi tù binh chiến tranh Nga và Ukraina. « Phái bộ Zuppi » đã đạt được một số thành công trên cả hai mặt trận, mặc dù khó có thể định lượng được do màn sương mù của cuộc chiến. Thứ ba, Tòa Thánh hy vọng rằng các thỏa thuận nhân đạo sẽ là bước mở đầu cho các cuộc đàm phán hòa bình. Sau hơn một năm, nhiều sự kiện này đã diễn ra qua các chuyến đi và gặp gỡ của các nhân vật có trách nhiệm và chính đức giáo hoàng cho thấy Tòa Thánh đã làm việc không ngừng, và nhất là trong những tháng gần đây để thúc đẩy sứ mệnh của mình. Việc đức hồng y Zuppi trở lại Nga ngụ ý rằng các cuộc thảo luận về tù binh chiến tranh và trẻ em bị bắt cóc đã tiến triển đến mức cần phải có các cuộc đàm phán trực tiếp để đạt được nhiều tiến bộ hơn nữa. Nhưng đó đơn giản chỉ là một suy luận. Nhưng lịch trình của chuyến đi đã được thông báo cụ thể ? Chuyến đi của đức hồng y Zuppi bắt đầu bằng cuộc gặp ngày 14/10/2024 với ngoại trưởng Nga Serguei Lavrov. Bản thân điều này đã đánh dấu sự khác biệt đáng kể so với chuyến thăm đầu tiên của ngài. Trong chuyến đi trước vào tháng 6/2023, quan chức ngoại giao cấp cao nhất mà ngài gặp là Yuri Ushakov, trợ lý của tổng thống Nga về chính sách đối ngoại. Tòa Thánh Vatican có thể sẽ vui mừng khi Zuppi bảo đảm được một cuộc gặp ngay lập tức với ngoại trưởng Lavrov, có thể nói là nhân vật của điện Kremlin dễ nhận biết nhất sau tổng thống Vladimir Putin. Điều này cho thấy các nỗ lực nhân đạo của Tòa Thánh đang được chính phủ Nga coi trọng. Tuy nhiên, Vatican có thể thất vọng vì, không giống như tháng 6/2023, đặc sứ của giáo hoàng lần này không thể gặp nhà lãnh đạo Giáo hội Chính thống giáo Nga là đức thượng phụ Kirill. Một linh mục thuộc Uỷ Ban Quan hệ Đối ngoại của Tòa thượng phụ Matxcơva đã nói với hãng thông tấn nhà nước Nga TASS rằng « l ịch trình làm việc bận rộn của Đức t hượng phụ Kirill không cho phép một cuộc gặp mới với h ồng y Zuppi ». Nhưng đó không phải dấu hiệu quá thất vọng vì còn có những cuộc họp mang tính xây dựng tích cực ở cấp thấp hơn ? Bên cạnh cuộc gặp với Serguei Lavrov, ngoại trưởng Nga và Yuri Ushakov, cố vấn cho tổng thống Liên bang Nga về các vấn đề chính sách đối ngoại, còn có Marija Lvova-Belova, ủy viên tổng thống về Quyền Trẻ em và Tatiana Moskalkova, ủy viên tổng thống về Nhân quyền. Tuy không có cuộc họp nào với Đức thượng phụ Kyrill, nhưng quan trọng không kém là cuộc gặp gỡ với Giáo hội Chính thống Nga mà đại diện là đức tổng giám mục Antonij, chủ tịch Uỷ ban Quan hệ Đối ngoại của Tòa thượng phụ Matxcơva, có thể coi như là Ngoại trưởng, người mà Zuppi đã « thảo luận về nhiều vấn đề khác nhau, đặc biệt là những vấn đề có tính chất nhân đạo », theo ghi chú của Tòa Thánh. Trong cuộc họp này, có sự hiện diện của sứ thần Tòa Thánh tại Nga, đức tổng giám mục Giovanni D'Aniello, và đức ông Paul Butnaru, thuộc Cơ quan liên lạc với các quốc gia của Phủ Quốc vụ khanh. Đức hồng y Zuppi và đức tổng giá mục Antonij đã từng gặp nhau trong chuyến thăm trước vào năm 2023. Vatican vẫn tin rằng các Giáo hội có thể đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hòa bình. Cũng vào ngày 15/10, Zuppi đã nói chuyện với ủy viên phụ trách quyền trẻ em của Nga Maria Lvova-Belova, như ngài đã làm trong chuyến thăm năm 2023. Xin nhắc lại, cuộc gặp đầu tiên này giữa hai bên đã gây tranh cãi sâu sắc ở Ukraina, vì Tòa án Hình sự Quốc tế tại La Haye đã ban hành lệnh bắt giữ Lvova-Belova vào tháng 3/2023, khi buộc tội bà phải « chịu trách nhiệm về tội ác chiến tranh là cưỡng bức bất hợp pháp » trẻ em Ukraina sang Nga. Tuy nhiên, cuộc gặp năm 2023 với Lvova-Belova được cho là đã giúp Vatican thiết lập một cơ chế để đưa trẻ em trở về Ukraina. Theo nhật báo công giáo Ý Avvenire, hoạt động tiếp cận của Zuppi đã dẫn đến một hội nghị thượng đỉnh « trực tuyến » giữa Lvova-Belova và người đồng cấp Ukraina, mà tờ báo của các giám mục Ý mô tả là « một trong những trường hợp rất hiếm hoi có sự tiếp xúc trực tiếp giữa các bên ». Nhưng thông tin chi tiết về hội nghị thượng đỉnh này được giữ kín. Mặc dù Lvova-Belova đã nói vào tháng 4/2024 rằng « lần đầu tiên theo hình thức trực tiếp, chúng tôi đã có các cuộc đàm phán với phía Ukrain a », nhưng thanh tra viên Ukraina Dmytro Lubinets dường như đã bày tỏ sự nghi ngờ về tuyên bố này. Cuộc gặp thứ hai của Zuppi với Lvova-Belova có thể nhằm mục đích củng cố cơ chế hồi hương những trẻ em bị trục xuất. Sau cuộc họp, Lvova-Belova cho biết : « Chúng tôi đã đồng ý tiếp tục hợp tác vì lợi ích của các gia đình và trẻ em ». Còn theo Vatican News, « chúng tôi đã thảo luận về kết quả và sự tương tác hơn nữa vì lợi ích của các gia đình và trẻ em, bao gồm cả việc đoàn tụ các gia đình từ Nga và Ukraina. Chúng tôi đang thực hiện việc này với sự tham gia của bộ Ngoại Giao Nga. Chúng tôi quyết định tiếp tục làm việc cùng nhau ». Mặc dù tuyên bố không tiết lộ nhiều, nhưng nó cho thấy cuộc họp diễn ra khá tốt. Tiếp theo là gì ? Đây có phải điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến công du hoà bình vòng quanh thế giới như đã từng thực hiện hồi năm 2023 ? Việc đức hồng Y Zuppi đến Matxcơva lần này, trước tiên, cho thấy ông không chỉ đơn giản là quay lại con đường cũ và Vatican coi Nga là nơi phù hợp để tập trung các nỗ lực ngoại giao tại thời điểm này. Nhưng điều này vẫn chưa chắc chắn vì Vatican chia sẻ rất ít thông tin trước, về lịch trình công tác của phái viên hòa bình. Vatican có xu hướng chỉ đưa ra thông báo sau khi Zuppi đến thủ đô nước ngoài, vì vậy, ngay cả khi vị hồng y này có sẽ đến Ukraina tiếp theo hay không. Vatican cũng có thể không xem xét đến một chuyến đi khác tới Trung Quốc như là ưu tiên. Bởi vì việc này có thể thực hiện bằng hình thức họp trực tuyến như đã từng có : Cuộc điện đàm của đức hồng y Zuppi với đặc sứ Trung Quốc Lý Huy phụ trách các vấn đề Á-Âu hồi tháng 8/2023. Điều chắc chắn là Ukraina đã thấy Vatican cử đại diện là ngoại trưởng Tòa Thánh, đức tổng giám mục Paul Gallargher đến tham dự hội nghị cấp bộ trưởng vào ngày 30-31/10/2024 tại Canada thảo luận về việc trao trả tù binh chiến tranh Ukraina, thường dân và trẻ em bị trục xuất. Hội nghị Mon t réal kết thúc cho kết quả ra sao ? Hội nghị bộ trưởng diễn ra ở Montreal do Canada – Na Uy và Ukraina đồng chủ tịch để bàn về các vấn đề nhân đạo với hơn 70 nước và các tổ chức quốc tế. Hội nghị nhằm mục đích thiết lập lộ trình với các giải pháp thực tế để giải quyết mọi giai đoạn hồi hương tù binh chiến tranh và người bị trục xuất, bao gồm quân nhân, thường dân và trẻ em, cũng như tăng cường gây sức ép buộc Liên bang Nga phải tuân thủ luật pháp quốc tế và Công ước Genève. Người đứng đầu văn phòng tổng thống Ukraina, Andrij Yermak đã có cuộc họp riêng với các đại diện của Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Vatican và Thuỵ Sỹ. Ông Andrij Yermak và ngoại trưởng Tòa Thánh, đức tổng giám mục Paul Gallagher đã thảo luận về việc tăng cường hợp tác và đóng góp của Vatican vào việc thực hiện Công thức hòa bình, đặc biệt là việc thực hiện sứ mệnh của hồng y Matteo Zuppi nhằm hồi hương những trẻ em bị bắt cóc và tù nhân Ukraina. Đồng thời, đại sứ Ukraina bên cạnh Toà Thánh, Andrii Yarash đã gửi năm danh sách cho bộ trưởng ngoại giao Vatican: « một của những nhà báo; một của các thường dân đang trong tình trạng sức khỏe nguy kịch; một của những người lính bị thương; một của những giáo sĩ bị bắt; và tất nhiên là danh sách các trẻ em bị bắt cóc sang Nga . » Trong sứ mạng này, đại sứ cho biết, Ukraina đã có hai đối tác quan trọng là Qatar và Canada, nhưng Vatican có một vị trí đặc biệt. Ông nhắc đến đức giáo hoàng, đức hồng y Pietro Parolin, hệ thống các tòa khâm sứ và các khâm sứ Tòa Thánh, và nhất là vai trò đặc biệt của đức hồng y Matteo Zuppi. Nhưng trong những tháng tới, chúng ta nên chú ý đến các cuộc trao đổi tù binh chiến tranh và thường dân cũng như trẻ em bị bắt cóc. Mặc dù vai trò của Vatican trong những sự kiện như vậy hiếm khi được nhấn mạnh, nhưng Tòa Thánh không hề có dấu hiệu chậm lại trong nỗ lực đạt được bước đột phá nhân đạo khó nắm bắt trong diễn tiến của cuộc chiến này. RFI Tiếng Việt xin cảm ơn Linh mục Phạm Hoàng Dũng từ Liège, Bỉ .…
T
Tạp chí tiêu điểm
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/512.jpg 512w)
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Châu Mỹ Latinh : Ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc tại « sân sau » của Mỹ 12:15
12:15
הפעל מאוחר יותר
הפעל מאוחר יותר
רשימות
לייק
אהבתי12:15![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Vào lúc Hoa Kỳ cùng các đồng minh nỗ lực kềm hãm Trung Quốc ở châu Á, tại Nam Mỹ, Bắc Kinh tăng tốc đầu tư để mở rộng ảnh hưởng. Việc chủ tịch Tập Cận Bình ngày 14/11/2024 khánh thành cảng biển Chancay ở Pêru, trị giá hàng tỷ đô là một ví dụ điển hình, khẳng định thế ngày càng mạnh của Bắc Kinh ngay tại « sân sau » của Washington. Terminal Portuasrios Chancay (TPCH), do đích thân chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cùng đồng nhiệm Pêru Dina Boluarte khánh thành bên lề thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương APEC, sẽ là cảng biển dân sự - quân sự đầu tiên của Trung Quốc tại Nam Mỹ. Theo trang Intelligence Online (24/05/2022), cơ sở hạ tầng này đã ra đời nhờ vào mối liên kết đặc quyền mà Cosco Shippings Ports của Trung Quốc thiết lập với bộ Quốc Phòng ở Lima. Cựu tư lệnh Hải quân, tướng Gonzalo Rios Polastri, đô đốc Carlos Tejada Mera và Jason Guillén, trước đây là người đứng đầu bộ phận hậu cần của Hải quân Pêru, là những trụ cột của chi nhánh Cosco ở Chancay. Họ đều làm việc dưới sự điều hành của He Bo (Derek), phó tổng giám đốc chi nhánh Cosco ở Pêru. Cảng Chancay: Biểu tượng cho sức mạnh ảnh hưởng Trung Quốc Cảng biển khổng lồ do tập đoàn Cosco Shippings Ports, chiếm đến 60% cổ phần, đầu tư 3,6 tỷ đô la. Nằm cách thủ đô Lima gần 80 km về phía bắc và được xây dựng trên một diện tích rộng hơn 140 ha, một khi hoàn thành, cảng biển nước sâu Chancay (gần 18 mét) sẽ có 15 kè cảng và có thể tiếp nhận các loại tầu hàng lớn nhất thế giới, có khả năng vận chuyển đến 24 ngàn container. Với cơ sở hàng hải này, thời gian vận chuyển hàng hóa từ Trung Quốc đến Nam Mỹ cũng sẽ được rút ngắn từ hơn 30 ngày xuống còn khoảng hơn 20 ngày. Theo nhận định từ Marc Lanteigne, chuyên gia về Trung Quốc, trường đại học Bắc Cực ở Na Uy, được France 24 trích dẫn, có được cảng nước sâu nói trên « tầu thuyền Trung Quốc không phải quá cảnh tại một cảng ở Bắc Mỹ hay ở Mêhicô khi băng qua Thái Bình Dương đến vùng Nam Mỹ », nhất là trong trường hợp căng thẳng gia tăng giữa Washington và Bắc Kinh, tầu thuyền của Trung Quốc có nguy cơ không được ghé cảng Rio Grande của Mỹ. Đối với nhiều nhà quan sát, qua sự kiện này, Bắc Kinh đã chứng tỏ với các nước trong vùng « khả năng và mong muốn của Trung Quốc đầu tư vào các dự án hạ tầng quy mô lớn tại châu Mỹ Latinh », khu vực theo truyền thống được xem như là « sân sau » của Mỹ. Nhà nghiên cứu về Trung Quốc, Emmanuel Veron, Viện Ngôn ngữ và Văn minh phương Đông INALCO, giảng viên tại trường Hải quân Pháp, trên đài RFI giải thích, sau châu Phi, châu Mỹ Latinh được xem như vùng lãnh thổ chinh phục sau cùng của Trung Quốc. « Châu Mỹ Latinh đã nằm trong lịch trình chính sách đối ngoại của Trung Quốc từ nhiều năm qua. Sách Trắng đối ngoại của Trung Quốc đề cập đến khu vực này trong những năm 2007, 2008, 2009. Kể từ giai đoạn đó, có một sự chính thức hóa, chuẩn hóa chính sách đối ngoại đối với châu Mỹ Latinh. Nếu nhìn vào các chi tiết, rõ ràng, bất chấp chính sách đối ngoại Big Stick của tổng thống Roosevelt có từ cách nay hơn một thế kỷ, tất cả các nước châu Mỹ Latinh, sân sau của Mỹ, ngày nay đều nằm dưới ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc ở mọi cấp độ, từ công nghệ, nhập khẩu, xuất khẩu nguyên liệu thô, đặc biệt là các loại nguyên liệu chiến lược như khoáng sản, đậu nành và các nguồn thực phẩm ». Nơi nào Hoa Kỳ thoái lui, nơi ấy Trung Quốc lấp chỗ trống Các dữ liệu từ Ủy ban Kinh tế Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê thuộc Liên Hiệp Quốc cho thấy, trao đổi mậu dịch giữa Trung Quốc và các nước trong vùng đã tăng gấp 35 lần từ năm 2002 để đạt khoảng 500 tỷ đô la vào năm 2022, đến mức Bắc Kinh nay đã qua mặt Washington trở thành đối tác kinh tế hàng đầu tại chín quốc gia, trong đó có Brazil, Achentina và Perou. Trao đổi thương mại này có thể sẽ đạt mức 700 tỷ đô là vào năm 2035 theo như dự phóng từ Diễn đàn Kinh tế Thế giới được Le Monde (30/06/2023) trích dẫn. Các chính sách đầu tư ồ ạt, chiến lược ngoại giao cho vay, cùng với lập trường tôn trọng chủ quyền và « không can thiệp » trong nền ngoại giao Trung Quốc, đã hội tụ với những lợi ích kinh tế và chính trị của nhiều lãnh đạo thuộc « cánh tả mới » ở Nam Mỹ, tạo thuận lợi cho Trung Quốc dần lấn sâu vào khu vực. Theo một báo cáo của tổ chức tư vấn Đối thoại Liên lục địa châu Mỹ, trụ sở ở Washington, trong giai đoạn từ 2005 – 2022, các khoản vay mà Trung Quốc cấp cho các nước trong vùng đã tăng từ 7 triệu đô la lên thành 136 tỷ. Bà Margaret Myers, giám đốc chương trình châu Á và châu Mỹ Latinh, nhận định, « những khoản vay ồ ạt đó đã góp phần củng cố vị thế của các doanh nghiệp Trung Quốc tại châu lục, mở cho họ cánh cửa thị trường và danh tiếng của họ trên trường quốc tế . » Sự trỗi dậy ngoạn mục của Trung Quốc ở châu Mỹ Latinh còn được giải thích bởi việc Hoa Kỳ ngày càng giảm các cam kết với khu vực. Hai chuyên gia về châu Mỹ Latinh, Alvaro Mendez và Gaspard Estrada, trong một bài phân tích cho đại học Khoa học Chính trị Sciences Po Paris năm 2023, được France 24 dẫn lại, đã ghi nhận số lần ông Tập Cận Bình đến thăm các nước châu Mỹ Latinh còn « cao hơn cả số những chuyến thăm của các tổng thống Mỹ Barack Obama, Donald Trump và Joe Biden gộp lại ». Pêru: Đầu ra, đầu vào lý tưởng cho hàng xuất – nhập khẩu Trung Quốc Vì sao Trung Quốc đầu tư vào cảng Chancay của Peru ? Theo truyền thống, Trung Quốc ban đầu chỉ quan tâm đến các nguồn tài nguyên thiên nhiên, từ dầu hỏa của Venezuela, đậu nành của Brazil, Achentina, cho đến các mỏ đồng tại Pêru. Cùng với thời gian, các nhu cầu của Trung Quốc cũng thay đổi. « Tam giác vàng » lithium – Achentina, Chilê và Bolivia – kể từ giờ đặc biệt thu hút sự chú ý của Trung Quốc. Là quốc gia xuất khẩu hàng đầu chất lithium tinh chế và để giữ vững vị thế này, Trung Quốc cần đến châu Mỹ Latinh nhằm bảo đảm nguồn cung thiết yếu. Theo Emmanuel Veron, với việc đầu tư vào cảng biển Chancay, Trung Quốc đang định hình lại bản đồ diện mạo hàng hải ở châu Mỹ Latinh. « Sau khi đã hoạt động ở bờ Đại Tây Dương của Brazil cũng như châu Mỹ Latinh, Trung Quốc tấn công vào phía bờ Thái Bình Dương của khu vực khi xem Peru như là một cửa ngõ chủ chốt ». Nam Mỹ không chỉ là nguồn cung nguyên nhiên liệu chiến lược, mà còn là đầu ra thay thế cho hàng hóa Trung Quốc vào thời điểm nước này đang gặp khó khăn do dư thừa sản xuất. Nhìn từ góc độ này, cảng Chancay có thể đóng một vai trò chủ chốt : Bằng cách giảm thời gian vận chuyển, cảng nước sâu này cho phép hạ giá thành, và bán hàng hóa « Made in China » rẻ hơn tại châu lục, nhất là trong bối cảnh gia tăng căng thẳng thương mại Mỹ - Trung. Theo giới quan sát, có ba mặt hàng mà Trung Quốc đang nỗ lực tài trợ cho xuất khẩu do bị dư thừa sản xuất : Ô tô điện, các loại bình điện và pin năng lượng mặt trời. Tuy nhiên, ông Emmanuel Veron cảnh báo, cùng với dòng thác hàng hóa Trung Quốc, châu Mỹ Latinh có nguy cơ đối mặt với nạn buôn lậu, buôn người và buôn thuốc phiện: « Trên thực tế, đó không chỉ do mối quan hệ thương mại và chiến lược Mỹ - Trung tiếp tục tồi tệ, mà còn vì những khó khăn ngày càng rõ từ phía châu Âu đối với Trung Quốc, vào lúc châu Âu chuẩn bị tốt hơn để đối phó với việc Trung Quốc bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu. Do vậy, Trung Quốc cố gắng tìm kiếm nhiều thị trường mới, nhiều đầu ra khác và do vậy nhắm đến việc tái tổ chức các chuỗi giá trị, các chuỗi xuất khẩu của mình, và do vậy, các cơ sở hàng hải với đầu vào, đầu ra chính là cảng biển. Tuy nhiên, kèm với việc vận chuyển, buôn bán hàng hóa hợp pháp được hải quan giám sát, là nguy cơ gia tăng các hoạt động buôn bán bất hợp pháp trong những năm sắp tới. Bằng chứng cụ thể là các tổ chức có liên hệ với các nhóm mafia lớn, các tổ chức tội phạm Trung Quốc tại châu Mỹ Latinh đã tăng mạnh trong các lĩnh vực xuất – nhập khẩu thuốc phiện, buôn người hay nhiều sản phẩm bất hợp pháp khác . » Châu Mỹ Latinh và Biển Đông – Hai sân sau, hai cuộc chiến Trước những tiến triển này, Hoa Kỳ gần như tỏ ra bất lực. Washington đã không cản trở được nhiều nước trong vùng cắt đứt quan hệ với Đài Loan để « bắt tay » với Trung Quốc. Các chính sách cấm vận, trừng phạt chống Cuba, Venezuela và Nicaragua, gợi nhắc đến học thuyết Monroe, đưa ra vào thế kỷ XIX, theo đó, Hoa Kỳ tự cho quyền làm « cảnh sát » ở khu vực, làm sống lại những hồi ức đau thương về những cuộc can thiệp quân sự của Mỹ, thúc đẩy những nước này rơi vào vòng tay Trung Quốc. Ngoài việc mất lòng tin của các nước trong khu vực, đối mặt với các rủi ro về kinh tế, Hoa Kỳ còn có nguy cơ phải đối phó với sự hiện diện quân sự của Trung Quốc trong vùng. Hồi tháng 7/2024, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington, dựa vào các hình ảnh vệ tinh, cho rằng Trung Quốc đang có các hoạt động gián điệp ở Cuba. Truyền thông Mỹ năm 2023 còn loan tin Cuba và Trung Quốc đã có một thỏa thuận về việc thiết lập một căn cứ do thám để Trung Quốc thu thập các dữ liệu từ Mỹ. Nghiên cứu của CSIS khẳng định Bắc Kinh có đến 4 cơ sở quân sự tại Cuba. Hơn nữa, Trung Quốc còn sở hữu nhiều trạm thu vệ tinh trên mặt đất tại châu Mỹ Latinh, mà nhiều chuyên gia nghi ngờ được sử dụng cho hoạt động dọ thám. Một đài quan sát không gian ở miền nam Achentina là do quân đội Trung Quốc quản lý. Chính quyền Buenos Aires khẳng định các hoạt động của đài chủ yếu phục vụ trong lĩnh vực dân sự, nhưng nội dung thỏa thuận mà Achentina ký kết với Trung Quốc năm 2014 đã được giữ bí mật. Một nhà ngoại giao châu Âu, xin ẩn danh, giải thích : « Một điều khoản dường như quy định rằng Achentina chỉ có thể sử dụng đài quan sát này 10% thời gian. Đó là một sự nhượng thổ không hơn không kém ! » Le Monde ngày 30/06/2023 cho biết, cùng với việc phát triển quan hệ hợp tác kinh tế, Trung Quốc cũng tăng cường thắt chặt hơn và đa dạng hóa quan hệ quân sự với các nước Châu Mỹ Latinh, được thiết lập từ những năm 1990. Binh sĩ các nước châu Mỹ Latinh được gởi đến đào tạo ở trường đại học quốc phòng Trung Quốc. Khu vực này tuy mua rất ít vũ khí Trung Quốc, nhưng ông khổng lồ châu Á này đang tìm cách chen chân vào thị trường châu Mỹ Latinh. Bắc Kinh đã từng hối thúc Buenos Aires trang bị tiêm kích JF-17 Thunder, do Trung Quốc và Pakistan sản xuất, hay mua nhiều loại xe bọc thép khác, nhưng bất thành, do vấp phải sự cản trở từ Mỹ. Hoa Kỳ tiếp tục các hoạt động quân sự và tình báo tại khu vực gần với đối thủ châu Á của mình. Chiến đấu cơ Mỹ bay trên không phận Biển Đông và thực thi giám sát điện tử, trong khi tầu chiến Mỹ qua lại ở eo biển Đài Loan. Washington bán vũ khí cho Đài Bắc và cử các chuyên viên quân sự đến đảo. Chẳng phải Bắc Kinh cũng đang làm điều tương tự ngay trên chính sân nhà của Washington tại châu Mỹ Latinh ?…
T
Tạp chí tiêu điểm
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/512.jpg 512w)
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Lập trường của chính quyền Trump nhiệm kỳ 2 về Ukraina và Đài Loan 12:43
12:43
הפעל מאוחר יותר
הפעל מאוחר יותר
רשימות
לייק
אהבתי12:43![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Cựu tổng thống Mỹ, ứng viên đảng Cộng Hòa Donald Trump đã giành chiến thắng áp đảo trong cuộc bỏ phiếu ngày 05/11/2024, trở thành tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ. Trở lại Nhà Trắng, Donald Trump sẽ xử lý thế nào các cuộc khủng hoảng địa chính trị hiện nay, từ Ukraina, Cận Đông cho đến Đài Loan ? Donald Trump có thể sẽ bỏ rơi một số đồng minh, hay buộc họ phải « trả phí » để có sự hậu thuẫn từ Mỹ ? Nguyên nhân thất bại của Kamala Harris Theo kết quả kiểm phiếu được AP cập nhật đến sáng 07/11/2024, lúc 11 giờ, giờ Paris, cựu tổng thống Mỹ Donald Trump đã có được sự ủng hộ của 295 đại cử tri, bỏ xa đối thủ đảng Dân Chủ, phó tổng thống sắp mãn nhiệm Kamala Harris, chỉ được 226 phiếu. Trả lời RFI Tiếng Việt, nhà báo Phạm Trần từ Washington trước hết nhận định về kết quả cuộc bỏ phiếu : Nhà báo Phạm Trần : « Kết quả không có gì ngạc nhiên. Thứ nhất, khi tranh cử, Kamala Harris đã được nhiều nữ cử tri hưởng ứng và hứa bỏ phiếu cho bà. Thứ hai là những người di dân, thiểu số. Bởi vì bà Harris là người gốc di dân, thiểu số, rồi lại là người da mầu. Đây là những yếu tố có thể hội đủ số phiếu cử tri. Nhưng ngược lại, bà Harris không có được lá phiếu ủng hộ của giới trẻ và đàn ông của nước Mỹ. Những người này đã dồn phiếu cho ông Trump. Trong khi đó giới nữ da trắng, một phần ủng hộ bà Harris nhưng phần lớn vẫn nghiêng về phía đảng Cộng Hòa. Do vậy ông Trump đã có nhiều lợi điểm thắng thế trong cuộc bỏ phiếu vừa qua . » Theo hãng tin Reuters, bất chấp những hứa hẹn bảo vệ việc làm cho giới công nhân công đoàn, bà Kamala Harris đã không nhận được sự ủng hộ của Hiệp hội Nghiệp đoàn IBT (International Brotherhood of Teamsters), vốn ủng hộ nhiệt tình đảng Dân Chủ từ năm 1996. Giới lãnh đạo nghiệp đoàn nêu rõ một trong những thất bại của chiến dịch vận động tranh cử của Kamala Harris : Bà không có khả năng thuyết phục tầng lớp cử tri công nhân, vốn dĩ lo lắng về tình trạng lạm phát và tình hình kinh tế. Nhưng không chỉ có thế. Theo quan sát nhà báo Phạm Trần, những người bỏ phiếu cho Donald Trump còn ủng hộ ý kiến « Make America Great Again » mà nhà tỷ phú Mỹ không ngừng hô hào từ suốt 8 năm qua. Nhà báo Phạm Trần : « Trong chương trình tranh cử, Kamala Harris tuyên bố, thứ nhất, sẽ có các biện pháp hạ giá tất cả các loại nhu yếu phẩm. Thứ hai là giảm thuế. Điểm thứ ba là sẽ nghiên cứu một chính sách di dân. Cuộc bầu cử vừa qua đúng là có những vấn đề về kinh tế, có vấn đề di dân, nhưng thêm vào đó, các cuộc trưng cầu dân ý cho thấy là người dân Mỹ cũng quan tâm đến vấn đề dân chủ, vấn đề sức mạnh của đất nước, và do vậy, những thành phần cử tri đó đã nghiêng về phía ông Trump. Kinh nghiệm từ cuộc bầu cử năm 2016, năm ông Trump đắc cử lần đầu, cho thấy ông ấy có chính sách quốc phòng mạnh, có chính sách kinh tế mạnh và muốn bảo vệ quyền lợi của người dân Mỹ, thay vì phân phối tài nguyên của nước Mỹ để cho các nước khác có thể nhờ vào đó làm giàu, ví dụ như Trung Quốc, đối với ông Trump, quốc gia có cùng chung đường lối về vấn đề kinh tế hay phát triển, hay mậu dịch. Do vậy, người dân Mỹ ủng hộ chính sách này. Nếu nói là bảo thủ thì hơi quá đáng, nhưng thực sự người dân Mỹ ủng hộ ý kiến phải làm cho nước Mỹ cường thịnh trước đã, rồi mới lo đến các nước khác . » Ukraina : Viễn cảnh bị bỏ rơi hay bị ép nhượng thổ Về đối ngoại, trong quá trình vận động tranh cử, Donald Trump từng tuyên bố, « sẽ chấm dứt tất cả các cuộc khủng hoảng quốc tế mà chính quyền hiện tại đã tạo ra, kể cả cuộc chiến tranh khủng khiếp giữa Nga và Ukraina, có lẽ sẽ không bao giờ xảy ra nếu tôi là tổng thống ». Nhà tỷ phú Mỹ khẳng định rằng ông có khả năng chấm dứt các xung đột trên thế giới chỉ bằng « một cú điện thoại ». Trong suốt thời gian vận động tranh cử, Donald Trump không ngừng đả kích sự hậu thuẫn quân sự và tài chính mạnh mẽ mà chính quyền Biden dành cho Ukraina, tính đến hôm nay đã lên đến 85 tỷ euro, theo thống kê từ Viện Kiel của Đức. Kiev toát mồ hôi hột khi người đứng liên danh với Donald Trump, J.D. Vance, hồi tháng Chín năm nay, trong một podcast đăng trên Youtube có tựa đề « Shawn Ryan Show » mô tả việc hình thành một vùng « phi quân sự hóa » trên lãnh thổ Ukraina dọc theo đường chiến tuyến, « sẽ được củng cố mạnh mẽ để Nga không thể xâm chiếm Ukraina ». Theo Franceinfo, điều này cũng có thể được hiểu là « hãy để cho Nga kiểm soát các vùng lãnh thổ mà họ đã chiếm được, vào thời điểm đề xuất đàm phán ». Ngoài ra, đoạn video của ông Vance khẳng định kế hoạch « hòa bình » của ông Trump còn bao gồm cả việc cấm Ukraina gia nhập NATO hoặc các « thể chế đồng minh khác », theo như yêu cầu từ Vladimir Putin. Và đi xa hơn nữa là Mỹ sẽ đình chỉ hoặc ngừng hoàn toàn viện trợ quân sự. Về hồ sơ này, nhà báo Phạm Trần giải thích thêm : Nhà báo Phạm Trần : « Đây là điều đáng quan tâm. Khi tranh cử, Donald Trump đã nói rõ là nếu đắc cử, ông sẽ không tiếp tục viện trợ vũ khí, đạn dược cho Ukraina nữa. Ông nói rằng nước Mỹ không có quyền lợi gì ở Ukraina. Đây là điểm khiến nhiều thành phần ở nước Mỹ, đặc biệt là các nghị sĩ, dân biểu Quốc Hội, nhất là bên phía đảng Dân Chủ, không hài lòng. Bởi vì, dù sao đi nữa, Hoa Kỳ cũng đứng đầu thế giới tự do, đi đầu về bảo vệ nhân quyền và sức mạnh của châu Âu. Nếu Donald Trump bỏ rơi Ukraina, thì châu Âu rất lo ngại, bởi vì bên cạnh Ukraina là Ba Lan và nhiều nước khác nữa có nguy cơ bị tổng thống Nga Vladimir Putin tiếp tục xua quân chiếm đóng. Và nếu Mỹ không can thiệp, Mỹ không muốn bảo vệ, thì tình hình thế giới sẽ biến loạn và có nhiều nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh khác ở châu Âu nói riêng và toàn thế giới nói chung. Điều đáng quan tâm là liệu ông Trump có thi hành những cam kết trong cuộc vận động tranh cử hay không ? Hay là ông ấy sẽ phải nhượng bộ ? Tôi tin rằng trong trường hợp của Ukraina và về tình hình an ninh của châu Âu cũng như là an ninh ở Trung Đông, các nước châu Phi, thì ông Trump không có khả năng để vượt qua quyền hạn của Quốc Hội, vượt qua ý muốn của người dân, để mà bỏ rơi Ukraina, bởi vì an ninh của châu Âu cũng là an ninh của nước Mỹ . » Đài Loan phải trả phí bảo vệ cho Mỹ ? Tại châu Á, các nước đồng minh cũng phập phồng lo âu. Mọi cặp mắt đổ dồn vào Đài Loan. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, Donald Trump đã làm cho mối quan hệ giữa Washington và Đài Bắc thêm gần gũi, trước sự thất vọng của Bắc Kinh, vốn dĩ xem Đài Loan là một phần lãnh thổ. Franceinfo nhắc lại, vào năm 2017, ngay khi vừa nhậm chức, Donald Trump đã có cuộc nói chuyện với tổng thống Đài Loan lúc bấy giờ là Thái Anh Văn. Cử chỉ chưa từng có này đã gây ra sự cố ngoại giao với Trung Quốc. Kể từ đó, Hoa Kỳ là « đồng minh hùng mạnh nhất và là bên cung cấp vũ khí chính » cho hòn đảo. Washington tuyên bố chính sách « mơ hồ chiến lược » : Không công nhận Đài Loan, cũng không ủng hộ ý tưởng độc lập chính thức và phản đối bất kỳ hình thức thống nhất nào bằng vũ lực. Trong năm 2024, Hoa Kỳ còn thông qua gói hỗ trợ quân sự trực tiếp cho Đài Loan. Nhưng các phát biểu của Donald Trump khi tranh cử khiến giới quan sát dự đoán có sự thay đổi về quan điểm, vì ông cho rằng « Đài Loan nên trả tiền để Mỹ bảo vệ họ ». Quan hệ Mỹ - Trung dưới nhiệm kỳ hai của Donald Trump sẽ ra sao ? Tình hình eo biển Đài Loan sẽ diễn tiến như thế nào ? Nhà báo Phạm Trần đưa ra một số nhận định : Nhà báo Phạm Trần : « Theo kinh nghiệm nhiệm kỳ đầu tiên, Donald Trump rất cứng rắn với các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, ví dụ như hàng giả hay như việc Trung Quốc trợ giá để đánh bại hàng hóa của Mỹ. Nhưng về mặt chính trị, Donald Trump vẫn giữ các mối liên lạc chặt chẽ với chủ tịch Tập Cận Bình nói riêng và các lãnh đạo khác của Trung Quốc nói chung. Về vấn đề an ninh châu Á – Thái Bình Dương, lập trường của ông Trump tuy cứng rắn, nhưng ông có những mối quan hệ khá đặc biệt với Bắc Triều Tiên và với Nga. Điều đáng quan tâm ở đây là vai trò của Mỹ trong khu vực : Liệu nước Mỹ của Donald Trump có bảo vệ Đài Loan khi Trung Quốc tấn công hòn đảo này? Đây là điều chưa ai có thể biết được. Tuy nhiên, kinh nghiệm lịch sử các đời tổng thống Mỹ cho thấy eo biển Đài Loan vẫn do Hoa Kỳ tuần dương hàng ngày và có hạm đội số 7 tại vùng châu Á – Thái Bình Dương luôn giám sát, bảo vệ đảo Đài Loan. Tất cả tầu bè đi lại hay các hạm đội Trung Quốc đi qua eo biển để xuống vùng Biển Đông đều được lực lượng hải quân Hoa Kỳ theo dõi. Quả thật, chuyện tương lai không ai biết được sẽ diễn ra như thế nào, và có thể gây nguy hiểm cho tình hình an ninh châu Á – Thái Bình Dương hay không ? Nhưng ông Donald Trump hay bất cứ một vị tổng thống nào cũng phải đặt quyền lợi của nước Mỹ, quyền lợi các đồng minh của Mỹ, đặc biệt là với Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines, lên hàng đầu. Thế nên, nỗi lo ông Trump bắt tay với Trung Quốc để cho nước này tự do hoành hành, tự do chiếm các biển đảo của các nước ở vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam với vùng Biển Đông, tôi không tin là sẽ xảy ra ! » Báo Pháp Le Figaro ngày 06/11/2024, cho biết trong đêm ngày bỏ phiếu 05/11, lực lượng Không gian Mỹ đã cho bắn thử một tên lửa đạn đạo liên lục địa « Minuteman III », có thể mang đầu đạn hạt nhân từ căn cứ Vendenberg ở bờ Tây Thái Bình Dương nước Mỹ. Vì sao Hoa Kỳ lại chọn đúng ngày bầu cử để thử nghiệm vũ khí là điều khiến giới quan sát thắc mắc. Tờ báo Pháp thiên hữu này nhắc lại cuộc thử nghiệm này diễn ra trong bối cảnh Nga vừa xem xét lại học thuyết hạt nhân (26/09/2024), Bắc Triều Tiên cách nay vài ngày bắn thử tên lửa đạn đạo liên lục địa ICBM, cũng như căng thẳng gia tăng nghiêm trọng giữa hai cường quốc hạt nhân tại Trung Đông là Israel và Iran. Một lời cảnh cáo ngầm cho các đối thủ lớn của Mỹ và đồng minh của Mỹ chăng ? RFI Tiếng Việt xin cảm ơn nhà báo Phạm Trần từ Washington .…
T
Tạp chí tiêu điểm
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760895/series/2T54x6Pc0AgSyzpy/512.jpg 512w)
![Tạp chí tiêu điểm podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Trump hay Harris: Châu Á vẫn là « rường cột » chính sách đối ngoại của Mỹ 11:18
11:18
הפעל מאוחר יותר
הפעל מאוחר יותר
רשימות
לייק
אהבתי11:18![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Ngày 05/11/2024, cử tri Mỹ phải phân định ai sẽ là tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ : Ứng viên đảng Dân chủ Kamala Harris hay Donald Trump, ứng viên đảng Cộng Hòa, hiện đang bám gót trong các cuộc thăm dò. Tuy nhiên, bất kể ai là người chiến thắng, Bắc Kinh vẫn sẽ là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Washington. Và trong cuộc đọ sức « dài hơi » này, Đông Nam Á sẽ giữ một vai trò quan trọng. Nếu như thế giới, đặc biệt là châu Âu, NATO và Ukraina hồi hộp trông đợi kết quả bầu cử, và nhiều nước hy vọng tránh được sự trở lại với sự « xáo động » và tính chất bất định, đánh dấu nhiệm kỳ Donald Trump, thì tại Trung Quốc, giới lãnh đạo dường như đang chuẩn bị tiếp tục đương đầu các tranh chấp thương mại với Hoa Kỳ, bất kể ai là người thắng cử. Tính liên tục của chính sách đối ngoại Mỹ Bởi vì, tại Washington, có một sự đồng thuận lưỡng đảng, xem Trung Quốc là mối đe dọa cho thế thống trị của Hoa Kỳ và do vậy, cả hai ứng viên, Kamala Harris hay Donald Trump, đều hòa theo xu hướng chống Trung Quốc trong chính giới Mỹ, đã hứa hẹn cứng rắn hơn với Trung Quốc, nền kinh tế thứ hai trên thế giới và là đối tác thương mại quan trọng của Mỹ. Mục tiêu đặt ra cho cả hai ứng viên, là Hoa Kỳ phải « giành chiến thắng » trong điều mà họ xem như là một cuộc cạnh tranh giữa hai đại cường. Theo nhiều nhà quan sát, tương lai thế giới trong nhiều thập niên sắp tới sẽ do quan hệ Mỹ - Trung, mối quan hệ quốc tế quan trọng nhất, định đoạt. Nicole Gnesotto, phó chủ tịch Viện Jacques Delors, tại hội thảo mang chủ đề « Hoa Kỳ : Lại bị chao đảo ? », trong khuôn khổ Ngày hội Địa Chính Trị Nantes 2024 (27-28/09/2024) do Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược IRIS tổ chức, nhận định, tính chất liên tục trong cuộc đối đầu Mỹ - Trung, là một trong nét đặc trưng của nền ngoại giao Mỹ trong những thập niên gần đây. « Năm 2011, Barack Obama là người đầu tiên nói đến xoay trục sang châu Á, người đầu tiên mang đến một ý nghĩa chiến lược cho mối bận tâm hàng đầu về Trung Quốc của Mỹ. Rồi Donald Trump đã mang đến một sắc thái thương mại cho mối ưu tiên hàng đầu này, điểm khởi đầu cho chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch chống nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc. Tiếp đến, Joe Biden đã biến mối đe dọa này theo chiều hướng công nghệ, với các sắc lệnh được đưa ra năm 2023, cấm các nhà công nghiệp Mỹ chuyển giao hay hợp tác với ngành công nghiệp Trung Quốc trên nhiều hồ sơ nhậy cảm. Nhưng tất cả những đời tổng thống này, bất kể là Obama, Trump hay Biden, còn có thêm chút sắc thái ý thức hệ, nghĩa là, một cuộc đấu tranh lớn giữa một bên là các nền dân chủ và bên kia là các chế độ chuyên chế độc tài. Do vậy, dù là Trump hay Harris có thắng cử đi chăng nữa, nỗi ám ảnh mối đe dọa Trung Quốc vẫn sẽ là một trong các điểm quan trọng, thậm chí là những rường cột cho chính sách đối ngoại của Mỹ. Đây sẽ là một vấn đề cho châu Âu . » Châu Á – Ưu tiên số một, châu Âu – vùng ngoại vi Kể từ giờ, Trung Quốc được chính giới Mỹ nhất trí phải đối xử như như là địch thủ, đối thủ cạnh tranh chính của Mỹ. Những biện pháp chính quyền Trump đưa ra để chống Trung Quốc đã được người kế nhiệm Biden duy trì, từ việc áp thuế nhập khẩu, kiểm soát chuyển giao công nghệ cao, cho đến các biện pháp trừng phạt vi phạm nhân quyền nhắm vào Bắc Kinh. Theo nhiều chuyên gia được AFP trích dẫn, Bắc Kinh không trông đợi một sự đảo hướng nào từ phía Donald Trump lẫn Kamala Harris. Kinh tế gia Adam Slater tại Oxford Economics, trong một ghi chú, cảnh báo rằng, « việc tăng cường chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch sau cuộc bầu cử Mỹ có nguy cơ dẫn đến việc tái cơ cấu lớn nền thương mại toàn cầu. Chính sách thuế quan của Donald Trump có khả năng làm suy giảm trao đổi thương mại Trung – Mỹ đến 70% và có thể gây ra sự biến mất hoặc tái định hướng hàng trăm tỷ đô la trao đổi thương mại . » Nhìn chung châu Á vẫn sẽ là ưu tiên hàng đầu cả trên bình diện thương mại lẫn về mặt chiến lược trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Trong buổi hội thảo ở Nantes, cựu đại sứ Pháp ở Washington và Tel Aviv, ông Gerard Araud, lưu ý rằng, Hoa Kỳ đang « rón rén » rời khỏi châu Âu và Ukraina là một rào cản, làm Mỹ bị phân tán khỏi điều cốt lõi. « Đối với Hoa Kỳ, điều cốt lõi được tóm gọn trong ba từ : Trung Quốc, Trung Quốc và Trung Quốc. Người Mỹ cho rằng châu Á mới là nơi mang đến tăng trưởng. Khi châu Âu có mức tăng trưởng 2% họ đã hô hào phấn khởi, nhưng khi Trung Quốc đạt 5% thì họ nói rằng Trung Quốc gặp khủng hoảng. Tuy nhiên, đối với nhiều người Mỹ, có một thực tế hiển nhiên là tương lai thế giới sẽ được định đoạt trong quãng không gian nằm giữa New Delhi và Los Angeles. Đối với họ, châu Âu đang dần trở thành một vùng ngoại vi của thế giới. Hoa Kỳ rất thực dụng, cuộc chiến xâm lược Ukraina tuy khiến họ phải bận tâm, nhưng như đã nói, Mỹ không ủng hộ và không sẵn sàng tham chiến tại Ukraina ». Vây hãm và Đối thoại Trong bối cảnh có sự dịch chuyển kinh tế và địa chính trị sang châu Á, Hoa Kỳ dưới thời Biden đã thiết lập nhiều mối quan hệ đồng minh và đối tác chiến lược. Cuộc đối đầu trực diện hiện nay giữa Mỹ và Trung Quốc gợi nhắc lại thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, đọ sức giữa Hoa Kỳ và Liên Xô trong những năm 1980, 1990. Hai siêu cường tương lai của thế giới có sẽ xác định một mô hình sống chung ? Hay hai đại cường sẽ lao vào một cuộc chiến đầy rủi ro ? Cựu đại sứ Pháp ở Mỹ Gerard Araud lưu ý rằng trong lĩnh vực địa chính trị, khi phải đối diện với kiểu đối đầu như hiện nay, người ta luôn nói đến hai vế : Ngăn chặn và Đối thoại. Chính quyền Biden cho đến lúc này đã phần nào thành công trong việc kềm hãm khi thiết lập nhiều mối quan hệ đồng minh với nhiều nước trong khu vực như Bộ Tứ - QUAD quy tụ bốn nước Úc, Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ, hay liên minh quân sự AUKUS Anh, Úc, Mỹ,… « Rồi còn có thỏa thuận đối tác chiến lược giữa Mỹ và Philippines, giữa Mỹ và Việt Nam. Khi tổng thống Mỹ mời đồng nhiệm Hàn Quốc và thủ tướng Nhật Bản đến Camp David, trong nhãn quan Trung Quốc, cử chỉ này có một ý nghĩa to lớn. Nếu nhìn từ Bắc Kinh, quý vị sẽ thấy rõ ở phía đối diện hình thành một chuỗi quan hệ đồng minh và liên minh chống Trung Quốc một cách rõ ràng và rất mạnh mẽ. Trong vụ rắc rối tầu ngầm Úc, với Pháp chỉ là viên đạn lạc, là nạn nhân liên đới. Đối với Mỹ, đây là cách thức để cung cấp cho Úc các phương tiện để có thể tiếp cận bờ biển Trung Quốc bằng tầu ngầm hạt nhân trong khi những loại tầu ngầm cổ điển không thể có được tầm với đó. Rõ ràng là Mỹ đang tìm cách ngăn chặn Trung Quốc. Cho nên thật dễ hiểu vì sao Trung Quốc phải tăng ngân sách quốc phòng ». Cũng theo ông Gerard Araud, vế thứ hai – cuộc « Đối thoại chính trị » chỉ mới bắt đầu. Nền ngoại giao Mỹ vốn dĩ kín tiếng, nhưng các cuộc tiếp xúc bí mật đã được tiến hành giữa Jack Sullivan, cố vấn an ninh quốc gia Mỹ và người đồng cấp Trung Quốc. Mục tiêu là để hai nước xác định các lằn ranh đỏ nhằm tránh những tính toán sai lầm: « Lằn ranh đỏ lớn, tính toán sai lầm lớn có thể xảy ra là Đài Loan. Đối với Trung Quốc, Đài Loan là lằn ranh đỏ tuyệt đối. Trung Quốc biết rõ là chiến tranh sẽ là một thảm họa, nhưng họ cũng sẽ không để Đài Loan giành độc lập bằng bất cứ giá nào. Nhưng đồng thời họ không nên đánh giá sai lầm quyết tâm của Mỹ. Nhưng tôi có lẽ sẽ kết luận bằng câu trả lời rằng nếu Trump được hỏi " ông nghĩ gì về Đài Loan ? " Câu trả lời duy nhất của ông ấy là " Đài Loan là đối thủ cạnh tranh với ngành công nghiệp Mỹ " . Nếu tôi là Bắc Kinh, tôi sẽ nghĩ đèn đỏ đã trở thành đèn mầu cam ! » Đông Nam Á, Biển Đông – Sự đồng thuận của lưỡng đảng Đây cũng chính là điều khiến nhiều lãnh đạo châu Á lo lắng. Với chủ trương « Nước Mỹ trên hết », « Donald Trump nếu tái đắc cử sẽ có một cách tiếp cận địa chính trị thế giới hoàn toàn không nhất quán giữa các khu vực, tùy thuộc vào những lợi ích do chính ông xác định và thường bị nhầm lẫn với lợi ích của các công ty của Trump », theo như nhận định của Marie - Cecile Naves, chuyên gia về Mỹ, giám đốc nghiên cứu tại IRIS. Bầu cử Mỹ diễn ra vào thời điểm căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines gia tăng mạnh mẽ do những tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Tầm nhìn về quan hệ quốc tế mang tính « giao dịch » của Donald Trump cũng như sự kín kẽ của bà Kamala Harris về chính sách đối ngoại làm dấy lên nhiều nghi vấn về những cam kết của Mỹ đối với các đồng minh và đối tác trong vùng Đông Nam Á, khu vực mà Mỹ cũng rất muốn tranh thủ trong cuộc cạnh tranh gay gắt với Trung Quốc, theo nhận định từ nhiều nhà quan sát. Tuy nhiên, theo Andrew Scobell, chuyên gia về Trung Quốc, Viện Hòa Bình Mỹ,được South China Morning Post trích dẫn, « quan điểm đồng thuận lưỡng đảng ở Washington là Trung Quốc đã trở nên hung hăng hơn nhiều ở Biển Đông và Hoa Kỳ phải chống lại các hành động khiêu khích của Trung Quốc, ủng hộ các đồng minh và đối tác ở vùng biển Đông Nam Á ». Đối với Andreyka Natalegawa, cộng tác viên cho Chương trình Đông Nam Á, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS tại Washington, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng sâu sắc giữa Mỹ và Trung Quốc, Đông Nam Á sẽ đóng một vai trò quan trọng. Do vậy, « bất kể ai thắng cử tháng 11 này, chính quyền tiếp theo phải đối mặt với một số ưu tiên rõ ràng trong năm tới: củng cố mối quan hệ với các đồng minh và đối tác quan trọng, quản lý căng thẳng ở Biển Đông và đưa ra kế hoạch kinh tế tích cực cho khu vực . » Nhìn chung, giới quan sát hầu hết có chung một nhận định, sẽ chẳng có nhiều khác biệt trong chính sách đối ngoại giữa Kamala Harris và Donald Trump. Có khác chăng là phương thức thực hiện, giữa « một chính quyền Harris sử dụng con dao mổ » và « một chính quyền Donald Trump dùng búa tạ », như hình ảnh ví von của nhà nghiên cứu Thibault Denamiel, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS, Washington với hãng tin Pháp AFP.…
ברוכים הבאים אל Player FM!
Player FM סורק את האינטרנט עבור פודקאסטים באיכות גבוהה בשבילכם כדי שתהנו מהם כרגע. זה יישום הפודקאסט הטוב ביותר והוא עובד על אנדרואיד, iPhone ואינטרנט. הירשמו לסנכרון מנויים במכשירים שונים.